4.1.1. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh du lịch và dịch vụ
v Du lịch và dịch vụ là một trong những ngành kinh doanh chuyên cung cấp những lao vụ, dịch vụ phục vụ nhu cầu sinh hoạt và đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Hoạt động kinh doanh du lịch và dịch vụ có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Du lịch và dịch vụ là ngành kinh tế có hiệu quả cao, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, song đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu phải nhiều.
- Hoạt động kinh doanh du lịch mang tính thời vụ, phụ thuộc nhiều vào các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội; điều kiện di sản lịch sử văn hóa, phong cảnh, chùa chiền độc đáo, hấp dẫn.
- Đối tượng phục vụ của ngành du lịch không ổn định và luôn biến động, rất phức tạp. Số lượng khách du lịch cũng như số ngày lưu lại của khách luôn biến động. Trong cùng một đợt nghỉ, nhu cầu của từng nhóm khách về ăn, ở, tham quan cũng rất khác nhau. Tổ chức hoạt động du lịch khá phân tán và không ổn định.
- Kinh doanh du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, liên quan tới nhiều mặt khác nhau của đời sống xã hội (hoạt động xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị, giao lưu quốc tế…). Điều này xuất phát từ các nhu cầu phong phú, đa dạng của du khách; đồng thời cũng xuất phát từ tính an toàn và hiệu quả trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Do vậy, kinh doanh du lịch thường bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau như: kinh doanh lữ hành, kinh doanh lưu trú, kinh doanh nhà hàng, kinh doanh vui – chơi – giải trí, kinh doanh vận chuyển, kinh doanh hàng hóa… Các hoạt động này có quy trình công nghệ khác nhau, chi phí kinh doanh cũng không giống nhau…
- Sản phẩm của hoạt động du lịch và dịch vụ nói chung không có hình thái vật chất, không có quá trình nhập, xuất kho, chất lượng sản phẩm nhiều khi không ổn định.
- Quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm du lịch và dịch vụ được tiến hành đồng thời, ngay cùng một thời điểm.
v Dịch vụ là ngành kinh tế có nhiều đặc điểm riêng có, khác biệt với các ngành sản xuất vật chất khác. Những điểm đặc thù của ngành kinh doanh dịch vụ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến công tác nói chung và công tác kế toán chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh dịch vụ nói riêng. Cụ thể:
- Một là: Kết quả hoạt động cung cấp dịch vụ thuần túy thường không có hình thái hiện vật cụ thể mà được thể hiện bằng lợi ích cho khách hàng thông qua việc thỏa mãn nhu cầu của khách hàng như: nhu cầu thông tin, nhu cầu di chuyển, nhu cầu tri thức…
Đặc điểm này dẫn đến thực tế là quá trình sản xuất, tiêu thụ và quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ thường khó tách bạch một cách riêng biệt; mục đích cũng như quy luật phát sinh và vận động của các khoản chi phí trong quá trình thực hiện dịch vụ khó có thể được phân tích một cách rõ ràng.
- Hai là: Hoạt động kinh doanh dịch vụ có sự đa dạng về phương thức thực hiện.
Ví dụ: ngành viễn thông có thể thực hiện loại hình viễn thông cố định, di động, cho thuê kênh viễn thông nội địa và quốc tế
Ngành vận tải có các phương thức như: vận tải thủy, vận tải đường bộ, đường không, đường sắt…
Ngành du lịch có các phương thức du lịch theo tuor trong nước, quốc tế, tour trọn gói hoặc từng phần…
Chính sự đa dạng về phương thức thực hiện dịch vụ dẫn đến sự đa dạng về đối tượng quản lý cũng như sự phức tạp trong tổ chức công tác kế toán nói chung, đặc biệt là tổ chức kế toán chi phí, doanh thu và xác định kết quả kinh doanh như: xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí, đối tượng ghi nhận doanh thu và xác định kết quả có thể theo từng loại hình, từng phương thức và từng loại hình kinh doanh dịch vụ.
- Ba là: Về mặt tổ chức quản lý kinh doanh, các doanh nghiệp dịch vụ thường thực hiện quản lý hoạt động kinh doanh theo quy trình thực hiện dịch vụ hoặc theo từng đơn đặt hàng. Đặc điểm này cũng dẫn đến sự đa dạng trong công tác kế toán chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh.
- Bốn là: Các doanh nghiệp dịch vụ có nhiều phương thức phối hợp hỗ trợ nhau trong quá trình kinh doanh như: liên doanh, liên kết…Các hình thức phối hợp này dẫn tới những phức tạp trong công tác quản lý nói chung và công tác kế toán nói riêng như: Kế toán chi phí, doanh thu trong các hình thức liên doanh “Hợp đồng hợp tác kinh doanh dưới hình thức tài sản kinh doanh đồng kiểm soát”; “Hợp đồng hợp tác kinh doanh dưới hình thức hoạt động kinh doanh đồng kiểm soát”.
4.1.2. Phân loại hoạt động kinh doanh trong các doanh nghiệp du lịch
Là một ngành kinh doanh mang tính tổng hợp cao, bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau, hoạt động hiện nay trong các doanh nghiệp kinh doanh du lịch và dịch vụ hết sức phong phú. Tuy nhiên, các hoạt động đó có thể phân về các loại sau:
- Hoạt động dịch vụ mang tính đơn thuần: Thuộc loại này bao gồm các hoạt động như hướng dẫn du lịch, vận tải hàng hóa, du khách, kinh doanh khách sạn, nhà hàng, kinh doanh lữ hành, kinh doanh các hoạt động vui chơi, giải trí…
- Hoạt động mang tính kinh doanh hàng hóa: kinh doanh hàng hóa lưu niệm, kinh doanh các vật phẩm phục vụ du khách.
- Hoạt động mang tính sản xuất: hoạt động xây lắp, hoạt động sản xuất hàng lưu niệm, sản xuất bánh kẹo, đồ uống, đồ hộp…
Tính chất của các hoạt động trên đây không giống nhau. Do vậy, cách thức hạch toán cũng hoàn toàn không giống nhau. Với các hoạt động kinh doanh hàng hóa, việc hạch toán tương tự như các doanh nghiệp thương mại. Ngược lại, với các hoạt động mang tính sản xuất, hạch toán lại giống doanh nghiệp sản xuất (công nghiệp, xây dựng cơ bản…).
4.1.3. Đặc điểm tổ chức kế toán chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh dịch vụ
4.1.3.1. Đặc điểm tổ chức kế toán chi phí sản xuất kinh doanh dịch vụ
v Chi phí kinh doanh trong du lịch bao gồm các khoản sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là những chi phí vật liệu kinh doanh phát sinh liên quan trực tiếp đến kinh doanh du lịch. Trong từng hoạt động kinh doanh, chi phí vật liệu trực tiếp không giống nhau.
- Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền công, tiền lương và phụ cấp lương phải trả cùng các khoản trích cho các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, bảo hiểm thất nghiệp theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh tính vào chi phí.
- Chi phí sản xuất chung: là những chi phí còn lại chi ra trong phạm vi bộ phận kinh doanh (buồng, bếp, bar, vận chuyển…)
Cũng giống như các doanh nghiệp sản xuất, các khoản chi phí nói trên tạo thành chỉ tiêu giá thành sản xuất thực tế của sản phẩm và dịch vụ du lịch. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh du lịch và dịch vụ khác còn phát sinh chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Đây là toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến việc tiêu thụ hay tổ chức, quản lý, điều hành toàn bộ hoạt động của công ty.
v Xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất dịch vụ
Do tính chất đa dạng về loại hình dịch vụ và phương thức thực hiện dịch vụ gắn với từng ngành dịch vụ cụ thể nên việc xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất kinh doanh là khá phức tạp. Doanh nghiệp dịch vụ phải căn cứ vào đặc thù về tổ chức quản lý, loại hình và phương thức thực hiện dịch vụ để xác định đối tượng tập hợp chi phí, làm cơ sở tổ chức kế toán chi phí, đáp ứng yêu cầu tính giá thành, kiểm soát và quản lý chi phí một cách có hiệu quả. Thông thường các doanh nghiệp dịch vụ có thể xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh là:
- Toàn bộ quy trình thực hiện các loại hình hoặc một loại hình dịch vụ, hoặc
- Từng bộ phận (tổ, đội, trung tâm) thực hiện dịch vụ, hoặc
- Từng đơn đặt hàng, hợp đồng kinh tế ký với khách hang, hoặc
- Từng khâu trong quy trình thực hiện dịch vụ…
v Vận dụng phương pháp tập hợp chi phí sản xuất dịch vụ
Tùy theo mối quan hệ giữa các chi phí sản xuất với các đối tượng tập hợp chi phí đã xác định, kế toán áp dụng phương pháp trực tiếp hoặc phân bổ gián tiếp để tập hợp chi phí theo các hệ thống tập hợp chi phí kế toán khác nhau.
- Phương pháp tập hợp trực tiếp
- Phương pháp phân bổ gián tiếp
Mục tiêu của việc phân bổ chi phí gián tiếp là để tính toán, quy nạp đầy đủ chi phí sản xuất cho các đối tượng chịu chi phí làm cơ sở cho việc kiểm soát chi phí, tính giá thành dịch vụ. Mức độ chính xác của kết quả phân bổ phụ thuộc vào sự phù hợp của tiêu chuẩn phân bổ được lựa chọn. Về nguyên tắc, tiêu chuẩn phân bổ thích hợp phải phản ánh được quy luật phát sinh và vận động của chi phí. Tùy theo đặc điểm, tính chất của khoản chi phí cần phân bổ mà xác định và lựa chọn tiêu chuẩn phân bổ phù hợp. Trong các doanh nghiệp dịch vụ, các tiêu thức thường được lựa chọn để phân bổ các chi phí cho các đối tượng chịu chi phí gồm: chi phí trực tiếp, doanh thu hoặc sản lượng dịch vụ được quy đổi… Để lựa chọn tiêu thức phân bổ, cần vận dụng nguyên tắc kế toán, như nguyên tắc trọng yếu, phù hợp, giá gốc, kỳ kế toán...
v Tổ chức tập hợp chi phí sản xuất dịch vụ theo các khoản mục chi phí
Theo góc độ kế toán tài chính, chi phí sản xuất kinh doanh dịch vụ được kế toán tập hợp theo các khoản mục chi phí để phục vụ cho công tác quản lý chi phí, tính giá thành và giá vốn của dịch vụ hoàn thành cung cấp cho khách hàng. Kế toán sử dụng các tài khoản theo quy định của hệ thống tài khoản thống nhất gồm:
- Tài khoản 621 – chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
- Tài khoản 622 – chi phí nhân công trực tiếp
- Tài khoản 627 – chi phí sản xuất chung
- Tài khoản 154 – chi phí sản xuất kinh doanh dỡ dang
- Tài khoản 631 – giá thành sản xuất (phương pháp KKĐK)
Các doanh nghiệp dịch vụ vận dụng các tài khoản thống nhất theo quy định về nội dung, kết cấu. Mặt khác, doanh nghiệp dịch vụ mở các tài khoản chi tiết theo yêu cầu quản lý để tập hợp chi phí theo từng đối tượng, phục vụ công tác quản lý và kiểm soát chi phí nội bộ đơn vị.
v Tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất của các hoạt động phụ trợ trong doanh nghiệp dịch vụ
Trong các doanh nghiệp dịch vụ có thể tổ chức các bộ phận phụ trợ hoạt động phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh chính. Xét về phương diện kế toán, các bộ phận sản xuất phụ trợ thường được xác định là đối tượng tập hợp chi phí và tính giá thành riêng. Chi phí của bộ phận phụ trợ phải được phân bổ theo mục đích sử dụng, trong đó chủ yếu tính vào hoạt động chính của doanh nghiệp dịch vụ. Quy trình tập hợp chi phí và phân bổ chi phí sản xuất phụ trợ có thể được khái quát thành các bước như sau:
- Bước 1: doanh nghiệp dịch vụ xác định đối tượng và phạm vi tập hợp chi phí sản xuất cho các bộ phận sản xuất phụ trợ.
- Bước 2: Tổ chức tập hợp chi phí sản xuất cho các hoạt động phụ trợ theo khoản mục chi phí theo các tài khoản chi tiết, các sổ kế toán chi tiết chi phí mở cho các bộ phận sản xuất phụ trợ đã xác định.
- Bước 3: Tổng hợp chi phí, xác định tổng giá thành sản xuất và giá thành sản xuất phụ trợ. Để xác định giá thành sản xuất của bộ phận phụ trợ cần xem xét trường hợp các bộ phận phụ trợ có cung cấp lao vụ lẫn nhau. Trong trường hợp này, kế toán thường áp dụng các phương pháp để xác định giá thành sản xuất của các bộ phận phụ trợ gồm:
+ Phương pháp đại số
+ Phương pháp sử dụng giá thành đơn vị kế hoạch
+ Phương pháp sử dụng chi phí đơn vị ban đầu
- Bước 4: Phân bổ giá thành sản xuất của hoạt động phụ trợ cho từng đối tượng tập hợp chi phí của hoạt động chính và cho các mục đích khác căn cứ vào khối lượng thực tế thực hiện và giá thành đơn vị.
Chi phí của bộ phận sản xuất phụ trợ tính cho đối tượng chi phí của hoạt động chính
|
=
|
Giá thành đơn vị của hoạt động sản xuất phụ trợ
|
x
|
Mức độ sử dụng dịch vụ sản xuất phụ trợ của đối tượng chi phí của hoạt động chính
|
v Tổ chức tổng hợp chi phí sản xuất, tính giá thành dịch vụ
Tùy theo loại hình và phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh dịch vụ mà doanh nghiệp dịch vụ có thể áp dụng hệ thống tập hợp chi phí và tính giá thành dịch vụ theo công việc hoặc hệ thống tập hợp chi phí, tính giá thành dịch vụ theo quá trình
- Hệ thống tập hợp chi phí và tính giá thành dịch vụ theo công việc áp dụng trong trường hợp đối tượng quản lý, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh dịch vụ là từng đơn đặt hàng, từng hợp đồng với khách hàng. Theo đó, chi phí sản xuất được tập hợp theo đơn hàng làm cơ sở cho việc xác định chi phí sản xuất dở dang và tính giá thành khối lượng dịch vụ đã thực hiện hoàn thành, được xác định là đã cung cấp cho khách hàng.
- Hệ thống tập hợp chi phí và tính giá thành dịch vụ theo quá trình được áp dụng trong trường hợp hoạt động cung cấp dịch vụ có tính chất hàng loạt theo một quy trình nhất định. Đối tượng tập hợp chi phí là toàn bộ hoặc từng khâu của quy trình công nghệ, từng bộ phận thực hiện dịch vụ. Phương pháp tính giá thành thường được áp dụng trong các doanh nghiệp dịch vụ là phương pháp giản đơn hoặc phương pháp tỷ lệ, phương pháp hệ số tùy theo mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành dịch vụ.
v Kế toán chi phí ngoài sản xuất trong doanh nghiệp dịch vụ
Chi phí ngoài sản xuất trong các doanh nghiệp dịch vụ tương tự như các doanh nghiệp khác gồm: chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí tài chính và các chi phí khác. Phương pháp kế toán tập hợp các khoản chi phí này cơ bản không có sự khác biệt lớn giữa các doanh nghiệp dịch vụ với các doanh nghiệp khác. Do vậy, phạm vi bài giảng này trình bày không đề cập cụ thể đến các khoản chi phí này.
4.1.3.2. Đặc điểm tổ chức kế toán doanh thu và kết quả kinh doanh dịch vụ
v Doanh thu, các khoản giảm trừ doanh thu cung cấp dịch vụ
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14 – Doanh thu và thu nhập khác “ Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu”
Doanh thu cung cấp dịch vụ được ghi nhận phải tuân thủ các quy định sau:
1. Doanh thu cung cấp dịch vụ chỉ được ghi nhận khi kết quả của giao dịch về cung cấp dịch vụ đó được xác định một cách đáng tin cậy. Trường hợp giao dịch về cung cấp dịch vụ liên quan đến nhiều kỳ thì doanh thu được ghi nhận trong kỳ theo kết quả phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập Bảng cân đối kế toán của kỳ đó. Kết quả của giao dịch cung cấp dịch vụ được xác định một cách đáng tin cậy khi thỏa mãn tất cả bốn (4) điều kiện sau:
- Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;
- Có khả năng thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch cung cấp dịch vụ đó;
- Xác định được phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập Bảng cân đối kế toán;
- Xác định được chi phí phát sinh cho giao dịch và chi phí để hoàn thành giao dịch cung cấp dịch vụ đó.
Trường hợp kết quả của giao dịch cung cấp dịch vụ không thể xác định được một cách chắc chắn thì doanh thu được ghi nhận tương ứng với chi phí được ghi nhận có thể thu hồi.
2. Doanh thu và chi phí liên quan đến giao dịch cung cấp dịch vụ phải được ghi nhận theo nguyên tắc phù hợp trong phạm vi năm tài chính.
3. Trường hợp trao đổi dịch vụ lấy dịch vụ tương tự về bản chất và giá trị thì việc trao đổi đó không được coi là một giao dịch tạo ra doanh thu và không được tạo ra doanh thu.
4. Doanh thu được ghi nhận theo giá trị hợp lý của các khoản đã thu hoặc sẽ thu trong tương lai, cụ thể:
- Đối với doanh nghiệp dịch vụ tính và nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, doanh thu dịch vụ vận tải được ghi nhận theo giá dịch vụ cung cấp không bao gồm thuế GTGT.
- Đối với doanh nghiệp dịch vụ tính và nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì doanh thu được ghi nhận theo tổng giá thanh toán.
- Trường hợp dịch vụ được xác định là xuất khẩu, chịu thuế xuất khẩu thì doanh thu được ghi nhận theo tổng giá cước bao gồm cả thuế xuất khẩu.
- Trường hợp hợp đồng cung cấp dịch vụ được thực hiện qua nhiều kỳ kế toán thì doanh thu dịch vụ được ghi nhận theo phương pháp tỷ lệ hoàn thành. Để xác định phần công việc đã hoàn thành, làm cơ sở xác định doanh thu ghi nhận trong kỳ, doanh nghiệp dịch vụ có thể áp dụng các phương pháp sau:
Ø Đánh giá phần công việc đã hoàn thành;
Ø So sánh tỉ lệ (%) giữa khối lượng công việc đã hoàn thành với tồng khối lượng công việc phải hoàn thành;
Ø Tỷ lệ (%) chi phí đã phát sinh so với tổng chi phisuwowcs tính đẻ hoàn thành toàn bộ dao dịch cung cấp dịch vụ.
5. Doanh thu dịch vụ được theo dõi chi tiết theo từng loại doanh thu phục vụ cho việc quản lí doanh thu xác định kết quả kinh doanh theo yêu cầu quản lí hoạt động kinh doanh của đơn vị.
Các khoản giàm trừ doanh thu theo quy định hiện hành của chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14 – Doanh thu và thu nhạp khác bao gồm:
- Chiết khấu thương mại: Là khoản mà doanh nghiệp bán giảm trư cho người mua trên giá niêm yết dô khách hành mua với khối lượng lớn.
- Giảm giá hàng bán: Là khoản giảm trừ cho người mua hàng do hàng kém phẩm chất, sai quy cách hoặc lạc hậu thị hiếu.
- Giá trị hàng bán bị trả lại: là giá trị khối lượng hàng đã bán, dịch vụ được cung cấp bị khách hàng trả lại, không nghiệm thu, từ chối thanh toán.
Kết quả kinh doanh dịch vụ được xác định trên cơ sở so sánh doanh thu va chi phí liên quan đến hoạt động kinh doanh dịch vụ, được biểu hiện bang số tiền lãi họa lỗ trong một kỳ. Kết quả kinh doanh dịch vụ được xác định và phân phối theo trình tự dược quy định. Đồng thời, kết quả kinh doanh dịch vụ được xác định chi tiết theo từng loại hình dịch vụ hoặc từng bộ phận thực hiện dịch vụ đáp ứng theo yêu cầu quản lí chi tiết của đơn vị.
Đặc điểm phương pháp kế toán doanh thu và kết quả kinh doanh dịch vụ
Kế toán các doanh nghiệp dịch vụ vận dụng hệ thống chứng từ va tài khoản kế toán thống nhất để phản ánh và ghi nhận doanh thu, các khoản giảm trừ doanh thu dịch vụ. Các tài khoản kế toán được sử dụng gồm:
- Tài khoản 511 – Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ;
- Tài khoản 512 – Doanh thu bán hàng nội bộ
- Tài khoản 3387 – Doanh thu chưa thực hiên;
- Tài khoản 521 – Chiết khấu thương mại;
- Tài khoản 531 – Hàng hóa bị trả lại;
- Tài khoản 532 – Giảm giá bán hàng;
- Tài khoản 821 – Chi phí thuế TNDN;
- Tài khoản 991 – Xác định kết quả kinh doanh.
Các tài khoản này được mở chi tiết theo quy định và theo yêu cầu quản lý doanh thu và cac khoản giảm trừ doanh thu của đơn vị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét