Các ngành từ kinh tế đến khoa học, xã
hội muốn phát triển đều chịu ảnh hưởng các điều kiện, hoàn cảnh đem lại cho
ngành đó, tức là phải có lực đẩy, có tiềm năng. Ngành du lịch cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Tuy nhiên, là một hoạt động đặc trưng, du lịch chỉ có thể
phát triển được trong những điều kiện mà nó cho phép. Trong những điều kiện này
có những điều kiện mang đặc tính chung thuộc về các mặt của đời sống xã
hội, bên cạnh đó do đặc điểm vị trí địa lý từng vùng mà nó tạo nên tiềm năng du
lịch khác nhau. Đó chính là nét đa dạng tạo nên những chương trình du
lịch độc đáo của từng vùng, miền và cái đích cuối cùng là thu hút khách du
lịch, tăng sự hiểu biết, tạo mối giao lưu văn hóa giữa các vùng, miền .
Tuy có sự phân
chia thành các nhóm tài nguyên song các điều kiện đều giữ một vai trò, ý nghĩa
nhất định và tác động qua lại đến nhau tác động qua lại đến nhau trong sự phát
triển du lịch.
2.1 Điều
kiện chung
2.1.1 An
ninh chính trị, an toàn xã hội
Để du lịch
không ngừng phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, sự phối
hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh với các hoạt động du lịch cũng như các
ngành kinh tế khác có ý nghĩa cực kì quan trọng. Sự bảo đảm vững chắc về quốc
phòng, an ninh tạo môi trường ổn định cho đất nước và khách tới tham quan.
Du lịch, bên
cạnh việc nghỉ ngơi là “thẩm nhận những giá trị vật chất, tinh thần độc đáo,
khác lạ với quê hương mình” Điều này đòi hỏi sự giao lưu, đi lại của du khách
giữa các quốc gia, các vùng với nhau. Bầu chính trị hòa bình, hữu nghị sẽ kích
thích sự phát triển của du lịch quốc tế. Một thế giới bất ổn về chính trị, xung
đột về sắc tộc, tôn giáo làm ảnh hưởng tới việc phát triển du lịch tức là nó
không làm tròn “sứ mệnh” đối với du lịch, gây nên nỗi hoài nghi, tâm lý sợ hãi
cho du khách. Bên cạnh đó, những cuộc nội chiến, những cuộc chiến tranh xâm
lược với nhiều loại trang thiết bị lợi hại làm hủy hoại tài nguyên du lịch, các
công trình nghệ thuật kiến trúc do loài người sáng tạo nên. Ở Việt Nam qua hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều công trình phục vụ phát triển du
lịch bị phá hoại, nếu tồn tại thì chỉ còn một phần và chúng ta đang ra sức kiến
tạo lại tức là chúng ta quá lạm dụng “bê tông hoá”, “nhựa hoá”, dù biết rằng nó
đã mất đi phàn nào đó giá trị nguyên bản. Năm 2000, tại hòn đảo Bali
(Inđônêxia) – nơi hấp dẫn khách du lịch của nhiều nước trên thế giới bị đánh
bom khủng bố để lại nổi kinh hoàng cho khách du lịch. Năm 2003 bệnh SAT ở
Trung Quốc, dịch Cúm gà ở Việt Nam gây nên những tổn thất lớn cho du lịch Trung
Quốc và Việt Nam và gián tiếp ảnh hưởng đến du lịch thế giới.
Thiên tai cũng
có tác động xấu đến sự phát triển du lịch. Nhật Bản là đất nước giàu và đẹp
nhưng luôn phải hứng chịu những trận động đất, gây khó khă cho phát triển du
lịch, có chăng chỉ phát triển du lich bị động. Vào những ngày cuới năm 2004,
một trận sóng thần lớn nhất từ trước tới nay xảy ra ở Đông Nam Á, Nam Á đã gây
thiệt hại lớn về người và của, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển du lịch.
Điều đáng nói là sóng thần đã làm cho nhiều du khách bị thiệt mạng, cơ sở vật
chất phục vụ phát triển du lịch bi huỷ hoại nặng nề. Bên cạnh đó là sự phát
sinh và lây lan các loại dịch bệnh như tả lỵ, dịch hạch sốt rét.
Từ những ví dụ
trên cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của an ninh chính trị, an toàn xã
hội cho khách du lịch, và là nhân tố quan trọng tạo nên sự thành bại của ngành
du lịch .
2.1.2 Kinh
tế
Một trong
mhững yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển du lịch là
điều kiện kinh tế chung. Nền kinh tế chung phát triển là tiền đê cho sự ra đời
và phát triển của ngành kinh tế du lịch. Theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế
thuộc Hội đồng Kinh tế và Xã hội của Liên Hợp Quốc, một đất nước có thể phát
triển du lịch một cách vững chắc nếu nước đó tự sản xuất được phần lớn số của
cải vật chất cần thiết cho du lịch.
Sự phát triển
của nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm có ý nghĩa quan trọng với phát triển
du lịch. Đây là cơ sở cung ứng nhiều hàng hoá nhất cho du lịch. Ngành công
nghiệp dệt cung cấp cho các xí nghiệp du lịch các loại vải để trang bị phòng
khách, các loại khăn trải bàn, ga giường…. Ngành công nghiệp chế biến gỗ trang
bị đồ gỗ cho các văn phòng, cơ sở lưu trú.
Khi nói đến
nền kinh tế của đất nước, không thể không nói đến giao thông vận tải. Từ xa
xưa, giao thông vận tải đã trở thành một trong những nhân tố chính cho sự phát
triển của du lịch, đặc biệt là du lịch quốc tế. Giao thông vận tải ảnh hưởng
đến sự phát triển du lịch trên hai phương diện: Số lượng và chất lượng. Sự phát
triển về số lượng làm cho mạng lưới giao thông thông vươn tới mọi miền trái
đất. Chất lượng của phương tiện giao thông ảnh hưởng tới chuyến du lịch ở
các mặt sau: tốc độ, an toàn, tiện nghi, giá cả.
Chúng ta có
thể khẳng định ngày nay với sự tiến bộ của khoa học – kỹ thuật nhiều
thành tựu được áp dụng vào sản xuất. Điều đó đồng nghĩa vói điều kiện kinh tế
của con người được nâng cao rõ rệt và vấn đề ăn, mặc, trở thành thứ yếu. Nhu
cầu được nghỉ ngơi, giải trí và giao lưu tình cảm xuất hiện. Hiện nay, trong
các nước kinh tế phát triển, du lịch trở thành nhu cầu không thể thiếu trong
cuộc sống của họ.Các nhà nghiên cứu kinh tế Du lịch đã đưa ra nhận định là ở
các nước kinh tế phát triển nếu nhu cầu quốc dân trên mỗi người tăng lên 1% thì
chi phí du lịch tăng lên 1,5%. Xu hướng ngày nay là hầu hết các du khách ở các
nước phát triển đều thích tham quan ở các nước đang phát triển .Điều này rất dễ
hiểu vì chi phí ở các nước đang phát triển thấp, phù hợp với điều kiện kinh tế
của người dân hạng trung lưu và nghèo ở các nước phát triển.
Kinh tế và
phát triển luôn có mối quan hệ hữu cơ, nghịch thuận lẫn nhau. Trong quá trình
phát triển của mình, du lịch luôn xem kinh tế là một trong những nguồn lực quan
trọng. Sự tác động của điều kiện kinh tế tới phát triển du lịch thể hiện ở
nhiều góc độ khác nhau. Tìm hiểu rõ vấn đề này là cách giúp những nhà quản lí
và làm du lịch có những chính sách phát triển của ngành phù hợp.
Như chúng ta
đã biết, du lịch là ngành dịch vụ, nhận nhiệm vụ “chuyển tải” sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ của các ngành kinh tế khác để cung cấp cho du khách nhằm tìm kiếm
lợi nhuận. Vì
vậy điều kiện kiện kinh tế đóng vai trò góp phần cung cấp các hàng hóa, dịch vụ
cho du lịch. Khi
khách tới Vũng Tàu không có nghĩa là chỉ tới để nghỉ dưỡng và tắm biển, bên cạnh
hoạt động đó du khach còn có cơ hội và mong muốn thưởng thức hải sản. Vậy ngành
kinh tế biển (đánh bắt cá) đóng vai trò cung cấp nguồn lợi thủy sản cho các nhà
hàng tại Vũng Tàu phuc vụ nhu cầu ăn uống và mua về là quà của du khách. Ngành
kinh doanh khách sạn cũng thế, nếu như không có ngành xây dựng, ngành sản xuất
đồ thủ công mỹ nghệ, ngành sản xuất đồ dùng thì hoạt động kinh doanh của nó
liệu có tồn tại không? Từ những ví dụ trên chúng ta khẳng định điều kiện kinh
tế là một trong những nhân tố tiên quyết quyết định sự thành bại tong kinh
doanh khách sạn.
Ngành du lịch
chỉ phát triển khi có khách du lịch. Nhân tố hình thành nên khách du lịch bao
gồm thời gian rỗi, đông cơ – nhu cầu đi du lich, khả năng tài chính. Chúng ta
thấy rằng khả năng tài chính của cá nhân mỗi du khách đóng vai trò rất quan
trong trong việc thúc đẩy bước chân của du khach tham gia cuộc hành trình. Nếu
như sau thế chiến II, mục tiêu của con người là kiến thiết lại nền kinh tế đã
bị kiệt quệ với nhu cầu chính là cơm ăn, áo mặc, nhà ở. Do đời sống còn thiếu
thốn nên nhu cầu du lịch xuất hiện. Trong những năm gần đây, có sư bùng nổ về
du lịch thế giới, người ta ước tính rằng ó khoảng 3 tỷ lượt du lich nội địa và
750 triêu lượt khách du lịch quốc tề. Điều này co nghĩa là khi nền kinh tế phát
triển, đời sống con người được nâng cao, các nhu cầu hàng ngày được đáp ứng thì
con người xuất hiện những nhu cầu cao hơn trong đó có nhu cầu du lịch. Như vậu
điều kiện kinh tế phát triển là cơ sở để ngành du lịch khai thác kinh doanh các
nguồn khách khác nhau.
Tuy nhiên, như
đã nói ở trên, giữa kinh tế và du lịch luôn có mối quan hệ nghịch thuận tức là
hoăc là kìm hãm, hoăc là thúc đẩy nhau phát triển. Cuộc khủng hoảng kinh tế
xuất phát từ Mỹ lan sang hầu hết các quốc gia trên thế giới đã kiến cho nhiều
ngành kinh tế rơi vào hoàn cảnh “đêm tối không có đường ra”, trong đó có ngành
du lịch. Cuôc khủng hoảng kinh tê khiến không ít doanh nghiệp du lịch phá sản,
nhiều điểm du lịch, khu du lịch, các cơ sở lưu trú vắng khách. Nguồn thu từ du
lịch thấp. Hậu quả là lương người lao động thấp, chán nản, bỏ việc, mức sống
của con người giảm. Vì thế nhu cầu du lịch của con người chạy về theo hướng số
không.
Ngày nay, xu
thế thế giới là toàn cầu hóa. Từng dòng tư bản và trí thức có sự luân chuyển
giữa các quốc gia với nhau. Trước xu thế đó, các công ty lớn thường có kế hoạch
khai phá thị trường của mình. Hoạt động kinh tế, trao đổi thương mại giữa các
quốc gia phát triển mạnh. Qua sư giao lưu, tìm hiểu kinh tế với các đối tác
nước ngoài cũng như qua các hôi nghị kinh tế lớn, ngành du lich co cơ hội quảng
bá điểm mạnh của mình ra thế giới. Bên cạnh đó, các hoạt động văn hóa thể thao
lớn ngày càng có yếu tố “thương mai hóa” và kéo đó là truyền hình vào cuộc. Tất
nhiên sự vào cuộc của truyền hình là đòn bẩy kính thích ngành du lịch của nhiều
quốc gia hồi sinh. Điều đó để chúng ta tự hỏi tại sao các nước luông muốn tranh
chấp để đươc đăng cai các sự kiện lớn như Worldcup, Olimlpic, hoa hậu….
Đất nước Việt
Nam ngày càng hội nhập. Bằng chứng là chúng ta được bầu làm ủy viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (LHQ) nhiệm kỳ 2008-2009 và chính
thức đảm nhiệm chức Chủ tịch luân phiên HĐBA LHQ nhiệm kỳ 01/07/2008 đến
31/07/2008, được gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO (11/1/2007) đã tạo
chỉ số uy tín rất cao của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhờ có chỉ số uy tín
cao nên chúng ta rất thuận lợi trong phát triển kinh tế và có khả năng “hút” các sự
kiện thể thao lớn trong khu vực, châu lục cũng như trên thế giới. Và nếu như
các sự kiện thể thao lớn được tổ chức thì cơ hội phát triển du lịch đạt hiểu
quả cao. Thông qua du lịch, chúng ta có cơ hội quảng bá hình ảnh đất nước trên
mọi lĩnh vực và lấy đó làm “thế” để thu hút các sự kiện thể thao khác.
Trong nước,
đời sống của người dân ngày càng cao, cố lượng khách du lịch nội địa cua Việt
Nam gần đạt ngưỡng 20 triệu, ngày lễ, ngày tết nhu cầu đi du lịch rất cao, có
lúc quá tải. Điều đó khiến chúng ta có thể khẳng định là do đời sống kinh tế
của người dân ngày càng cao, mức lương và thưởng hấp dẫn.
Trên bình diện
cả nước, nền kinh tế ngày càng phát triển “thay da đổi thịt”, nhiều công trình
cao cấp, nhiều khách sạn, resort liên kết với nước ngoài được đầu tư xây dựng.
Đó là cơ sở để chúng ta có cơ sở và đảm bảo khả năng khai thác và đón tiếp
nguồn khách quốc tế tới tham quan.
Điều kiện kinh
tế có vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển du lịch. Điều này cũng đòi
hỏi ngành du lịch trong qua trình phát triển của mình phải quảng bá, góp phần
xây dựng kinh tế. Có như vậy mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau mới bền
vững.
2.1.3 Văn
hóa
Trình độ văn
hoá cao tạo điều kiên cho việc phát triển du lịch. Phần lớn những người tham
gia vào cuộc hành trình du lịch là những người có trình độ văn hoá nhất định,
nhất là những người đi du lịch nước ngoài. Bởi vì họ có sở thích(nhu cầu) đối
với việc tìm hiểu các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, bản sắc văn hoá dân
tộc hay nói đúng hơn tài nguyên, điểm du lịch tác động đến họ theo một quá
trình: Thông tin à Tiếp xúc à Nhận thức à Đánh giá. Phải có trình độ văn hoá
thì mới hiểu hết giá trị của chuyến tham quan du lịch .Trong các nước mà nhân
dân có trình độ văn hoá cao thì số người đi du lịch ra ngoài tăng lên
không ngừng với cường độ cao. Bên cạnh độ, trình độ của người dân nước sở tại,
nơi đón khách cũng phải chú ý. Trình độ văn hóa thấp ảnh hưởng đến phát triển
du lịch: Ăn xin, cướp giật, ép khách mua hàng….
Việc phát
triển du lịch phải mang dấu ấn của con người, tức là con người thông qua trí
tuệ của mình đưa ra những biện pháp, cách thức để phát triển du lich. Một quốc
gia giàu có về tài nguyên du lịch nhưng nếu không biết sử dụng trí óc của con
người để phát huy hết giá trị của tài nguyên đó thì coi như “muối bỏ bể”. Ngược
lai có những quốc gia nghèo về tài nguyên du lịch nhưng biết phát huy hợp lí sẽ
thu hút được lượng khách du lịch rất lớn và ngành du lịch sẽ phát triển bền
vững.
2.1.4 Đường
lối phat triển du lịch
Chính sách
phát triển du lịch là chìa khóa dẫn đến thành công trong việc phát triển du
lịch .Nó có thể kìm hãm nếu đường lối sai với thực tế. Chính sách phát triển du
lịch được ở hai mặt: Thứ nhất là chính sách chung của Tổ chức du lịch thế giới
đối với các nước thành viên; thứ hai là chính sách của cơ quan quyền lực
tại địa phương, quốc gia đó. Mặt thứ hai có ý nghĩa quan trọng hơn cả vì nó huy
động được sức người, căn cứ vào khả năng thực tế tại mỗi vùng, quốc gia đó để
đưa ra chính sách phù hợp.
Những biện
pháp để thúc đẩy du lịch Việt Nam được Đảng và Nhà nước đề ra ở Đại Hội VIII:
“Triển khai
thực hiện quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam tương xứng với tiềm năng du lịch
của đất nước theo hướng du lịch văn hoá, du lịch môi trường sinh thái .Xây dựng
các chương trình và điểm hấp dẫn về văn hoá, di tích lịch sử và danh lam thắng
cảnh. Huy động nguồn nhân lực của nhân dân tham gia kinh doanh du lịch, ưu tiên
xây dựng cơ sở hạ tầng ở những khu du lịch, tập trung ở những trung tâm
lớn. Nâng cao trình độ văn hoá và chất lượng dịch vụ với các loại khách khác
nhau .Đẩy mạnh việc huy động vốn trong nước đầu tư vào khách sạn, chuyển các
nhà nghỉ, nhà khách từ cơ chế bao cấp sang kinh doanh khách sạn và du lịch.”
Nhận thức được
ảnh hưởng tiêu cực của thủ tục visa trên lượng du khách, chính phủ Việt Nam đã
sóm có sáng kiến về visa như từ tháng 1/2004 bãi bỏ thị nhập cảnh cho du
khách Nhật đến Việt Nam từ 15 ngày trở xuống.Tháng 7/2004, sáng kiến này cũng được áp
dụng với du khách Hàn Quốc. Các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia,
Inđonesa, Philippines, Singapore và Lào cũng có các thỏa hiệp visa với
Viêt Nam.
Đa dạng hoá
các sản phẩm du lịch Việt Nam là chính sách dài hạn của Tổng cuc Du lịch Viêt
Nam. Từ năm 1995, chính phủ đã chuẩn bị kế hoạch lớn thời kì 1995 – 2010 nhằm
phát triển du lịch, biến du lịch thành cánh tay đắc lực mang lại ngoại tệ
và công ăn việc làm cho người dân đồng thời giới thiệu phong cảnh, văn hoá và
con người Việt Nam với du khách nước ngoài. Năm 2000 kế hoạch được bổ sung và
chỉnh sửa. Theo kế hoạch, kỹ nghệ du lịch Việt Nam sẽ thu hút đầu tư phát triển
các cơ sở hạ tầng và phục vụ du khách đi kèm với việc phát triển các sản phẩm
du lịch độc đáo mang bản sắc Việt Nam.
Thực hiện
đường lối của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã có những văn bản chỉ đạo hoạt động
du lịch khoa học, thực tiễn và có hiệu quả từ Đại hội VIII đến nay. Pháp lệnh
du lịch Việt Nam ban hành ngày 20/2/1999 đã đi vào cuộc sống và tạo điều kiện
thuận lợi cho du lịch việt Nam ngày một đi lên.
2.2 Điều
kiện riêng
2.2.1 Tài
nguyên du lịch
Tài nguyên du
lịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát triển du lịch. Tài nguyên
nghĩa là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần được khai thác và ohục vụ
cho mục đích phát triển nào đó của con người. Theo Buchvakop – Nhà địa lý học
người Bungari “Tài nguyên du lịch bao gồm các thành phần và những kết hợp khác
nhau của cảnh quan thiên nhiên cùng cảnh quan nhân văn có thể được sử dụng cho
dịch vụ du lịch và thỏa mãn nhu cầu nghỉ ngơi hay tham quan của khách du lịch”.
Xét dưới góc độ cơ cấu tài nguyên du lịch, có thể phân thành hai bộ phận hợp
thành: Tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn .
Di sản thế giới:
Đây được coi
là tiềm năng lớn nhất và quan trong nhất, để phát triển du lịch. Di sản văn hoá
được hiểu là toàn bộ các tạo phẩm chứa đựng những giá trị tích cục mà
loài người đã đạt được trong xã hội thực tiễn do thế hệ trước truyền lại cho
thế hệ sau. Di sản văn hoá được chia ra làm hai loại:
Di sản văn hoá vật thể:
-
Là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.
- Toàn
bộ các sản phẩm vật chất hiện hữu dược hình thành do bàng tay sáng tạo của con
người, bao gồm: Hệ thống di tích lịch sử văn hoá, thể thống danh lam thắng
cảnh, thể thống di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Di sản văn hoá phi vật thể: là sản phẩm tinh thần có giá trị
lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu dữ bằng trí nhớ, chữ viết truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn, lễ hội truyền thống, ý thức về y dược học, trang phục
truyền thống….
Trên thế giới,
khá nhiều quốc gia có số di sản tương đối lớn được thế giới công nhận như Pháp
(18 di sản), ẤnĐộ (18), Trung Quốc (14), Tây Ban Nha (16), Anh (14), Canada
(10), Nhật Bản (5).v.v… Tính đến nay, Việt Nam có 6 di sản thế giới (trong đó
di sản văn hoá chiếm 4, đó là: Kinh Thành Huế, Nhã nhạc cung đình Huế, Phố cổ
Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn). Nếu nhìn từ gốc độ kinh tế (nói chung) và du lịch
(nói riêng) thì di sản văn hóa là một tiềm năng mang lại nguồn thu lớn cho đất
nước.
2.1.1.1 Tài nguyên du lịch tự
nhiên
Địa hình: Địa hình hiện tại của bề mặt trái đất
là sảnphẩm của các quá trình địa chất lâu dài (nội sinh, ngoại sinh ). Trong
chừng mực nhất định, mọi hoạt động sống của con người trên lãnhthổ đều phụ
thuộc vào địa hình. Đối với hoạt động du lịch, địa hình của một vùng đóng
một vai trò quan trọng với việc thu hút khách. Địa hình Đồng bằng tương đối đơn
điệu về ngoại cảnh nhưng là nơi tập trung tài nguyên du lịch nhân văn, đặc biệt
là các di tích lịch sử văn hoá và là nơi hội tụ các nền văn minh của loài
người. Địa hình đồi thường tạo ra không gian thoáng đãng, nơi tập trung dân cư
tương đối đông đúc, lại là nơi có những di tích khảo cổ và tài nguyên văn hóa,
lịch sử độc đáo, tạo khả năng phát triển loại hình du lịch tham quan theo
chuyên đề. Địa hình núi có ý nghĩa lớn nhất đối với phát triển du lịch,
đặc biệt là khu vực thuận lợi cho tổ chức du lịch mùa đông, và các loại hình du
lịch thể thao như leo núi, du lịch sinh thái .v.v…. Địa hình Karst được
tạo thành do sự lưu thông của nước trong các đá dễ hòa tan. Ở Việt Nam, động
Phong Nha (Bố Trạch – Quảng Bình) được coi là hang nước đẹp nhất thế giới. Bên
cạnh đó chúng ta còn phải kể tới như động Tiên Cung , Đầu Gỗ (Hạ Long), Tam Cốc
– Bích Động (Ninh Bình), Hương Tích (Hà Tây) .v.v… đang rất thu hút khách du
lịch. Địa hình bờ bãi biển là nơi tiếp xúc giữa đất liền và biển (kho nước lớn
của nhân loại). Do quá trình bồi tụ sông ngòi, các đợt biểu tiến và lùi, thủy
triều .v.v… đã tạo ra nhiều bãi tắm đẹp, thích hợp với loại hình du lịch nghỉ
dưỡng biển .
Khí hậu: Là một trong những yếu tố quan trọng
trong việc phát triển du lịch, nó tác động tới du lịch ở hai phương diện :
- Ảnh
hưởng đến việc thực hiện các chuyến du lịch hoặc hoạt động dịch vụ về du lịch .
- Một
trong những nhân tó chính tạo nên tính mùa vụ du lịch .
+ Du lịch cả
năm: Du lịch văn hóa, du lịch chữa bệnh .
+ Du lịch mùa
đông: Du lịch thể thao .
+ Du lịch mùa
hè: Du lịch biển, nói chung là phong phú.
Khí hậu Việt
Nam là khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa . Do nằm hoàn toàn trong vùng nội chí
tuyến (2 lần mặt trờiđi qua thiên đỉnh) nên lãnh thổ nhận được một lượng bức xạ
mặt trời rất lớn . Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 220C – 270C, tổng lượng
nhiệt hoạt động lên tới 8.0000C, tổng số giờ
nắng 1.400 giờ. Điều đó cho thấy các bãi biển luôn chan hòa ánh nắng và thu hút
một lượng khách trong nước và quốc tế đến đến nghỉ dưỡng, chủ yếu là vào
mùa hè. Tuy nhiên, khí hậu Việt Nam cũng có sự phân hóa phúc tạp về mặt không
gian và thời gian tạo nên tính mùa vụ du lịch và tạo nên những loại hình du
lịch thích hợp, phụ thuộc vào thời gian.
Tài nguyên nước: bao gồm nước chảy trên bề mặt và
nước ngầm. Đối với du lịch thì nguồn nước mặt có ý nghĩa rất lớn. Nó bao gồm
đại dương, biển, hồ, sông, hồ chứa nước nhân tạo, suối, Karst, thác nước, suối
phun…. Nhằm mục đích phục vụ du lịch, nước sử dụng tùy theo nhu cầ, sự thích
ứng của cá nhân, độ tuổi và quốc gia. Ở Việt Nam hiện có hơn 2.000km đường bờ
biển, do quá trình chia cắt kiến tạo, do ảnh hưởng của chế độ thủy triều và
sóng mà dọc đất nước đã hình thành nhiều bãi tắm đẹp như Sầm Sơn ( Thanh Hóa) ,
Cửa Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên – Huế), Nha Trang (Khánh Hòa) .v.v. . .
thích hợp đối với du lịch nghỉ dưỡng và loại hình du lịch thể thao như lướt
sóng, khám phá đại dương ở Nha Trang (Khánh Hòa). Bên cạnh đó, nước ta còn có
mạng lưới sông ngòi dày đặc, phân bố đồng đều trên lãnh thổ. Dọc bờ biển khoảng
20km gặp một của sông, có khoảng 2.360 con sông có chiều dài trên 10 km trở lên. Điều này
thuận lợi cho việc phát triển du lịch đi thuyền thưởng ngoạn cảnh vật ở hai bên
bờ sông kết hợp với thưởng thức ẩm thực và liên hoan văn nghệ. Chúng ta có thể
kể tới như đi thuyền trên sông Hồng, sông Hương, sông Cữu Long.v.v… Bờ biển
rộng kết hợp với mạng lưới sông ngòi dày đặc là nguồn cung cấp những sinh vật
có giá trị phục vụ văn hóa ẩm thực và xuất khẩu du lịch tại chổ .
Trong tài
nguyên nước, cần phải nói đến tài nguyên nước khoáng. Đây là nguồn tài nguyên
có giá trị du lịch an dưỡng và chữa bệnh trên thế giới, những nước giàu nguồn
nước khoáng nổi tiếng cũng là những nước phát triển du lịch chữa bệnh như Liên
Xô ( cũ), Bungary, Ý, CHLB Đức, CH Séc v.v Ở Việt Nam tiêu biểu có nguồn
nước khoáng Kim Bôi (Hoà Bình), Hội Vân (Bình Định), Quang hanh (Quảng Ninh),
Bình Châu (Bà Rịa-Vũng Tàu) v.v…..
Hệ động thực vật: Đây là một tiềm năng du lịch đã và
đang khai thác có sức hấp dẫn lớn khách du lịch. Du khách đến với các vườn quốc
gia, khu bảo tồn thiên nhiên để tham quan thế giới động thực vật sống động, hài
hòa trong thiên nhiên để con người thêm yêu cuộc sống. Bên cạnh đó là việc phát
triển loại hình du lịch nghiên cứu khoa học và du lịch thể thao săn bắn (phụ
thuộc vào quy định từng vùng). Nước ta có giới sinh vật phong phú về thành phần
loài. Nguyên nhân là do vị trí địa lý, nó như làmột nơi gặp gỡ của các luồng di
cư động và thực vật. Hiện nay chúng ta có các vườn quốc gia phục vụ phát triển
du lịch như: Cúc Phương (Ninh Bình), Ba Vì (Hà Tây), Cát Bà (Hải Phòng), Ba Bể
(Bắc Kạn), Bạch Mã (Huế), Yondon (Đắc Lắc), Nam Cát Tiên (Đồng Nai), Côn Đảo
(Bà Rịa- Vũng Tàu), hệ sinh thái Đầm Dơi (Cà Mau ), khu bảo tồn Tràm Chim (Đồng
Tháp).
2..1.1.2 Tài nguyên du lịch
nhân văn
Tiềm năng du
lịch nhân văn là đối tượng và hiện tượng văn hóa lịch sử do con người sáng tạo
ra trong đời sống. So với tiềm năng du lịch tự nhiên, tiềm năng du lịch nhân
văn có tác dụng nhận thức nhiều hơn, giá trị giải trí là thứ yếu. Tiềm năng du
lịch nhân văn thường tập trung ở các thành phố lớn, là đầu mối giao
thông và là nơi tập trung cơ sở vật chất phục vụ du lịch. Đại bộ phận tài
nguyên du lịch nhân dân không có tính mùa, không bị phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên nên tần suất hoạt động của nó là rất lớn (lượng khách, số ngày khách
đến).
Ngày nay, việc
phát huy các thế mạnh về tiền năng du lịch nhân văn để phát triển du lịch được
Nhà nước quan tâm, ngay Điều 1 pháp lệnh du lịch Việt Nam chỉ rõ: “Nhà nước
Việt Nam xác định du lịch là một ngàng kinh tế tổng hợp, quan trọng, mang nội
dung văn hoá sấu sắc…” . Việc phát triển du lịch nhân văn (Du lịch văn hoá) là
cách để giáo dục lòng yêu nước, nhận thức trách nhiệm bảo vệ tài sản công của
quốc gia, quản bá về hình ảnh của đất nước ra thề giới.
Di tích lịch sử văn hoá: là tài sản văn hoá quý giá của mỗ
địa phương, mỗi đất nước và của cả nhân loại. Di tích được hiểu theo nghĩa
chung nhất là những tàn tích, dấu vết còn sót lại của quá khứ, là tài sản
của các thế hệ trước để lại cho các thế hệ kế tiếp. Ở Việt Nam, theo pháp
lệnh bảo vệ và sự dụng di tích lịch sử văn háo và danh lam thắng cảnh công bố
ngày 04/04/1984 thì di tích lịch sử văn hoá được quy định chư sau:
“Di tích lịch sử văn hoá là
những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và các tác phẫm có giá
trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật, cũng như có gía trị văn hoá khác, hoặc liên
quan đến sự kiện lịch sử, quá trính phát triển văn háo xã hội”
Các bảo tàng: là nơi bảo tồn tài sản văn hoá dân
tộc, truyền thụ tri thức, chấn hưng tinh hoa truyền thống. Cùng với việc bảo vệ
các di tích lịch sử – Văn hoá, việc xây dựng các bảo tàng luôn đặt trong quốc
sách về kinh tế, văn hoá, xã hội mỗi quốc gia. Mục 3, Luật di sản văn hoá : “Bảo
tàng là nơi bào quản và trưng bày các sưu tập về lịch sử tự nhiên và xã hội
nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giáo dục tham quan quan”.
Chính các bảo tàng cũng là nơi thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài
nước.
Tính đến năm
2001, cả nước có ta có 117 bảo tàng và cơ quan làm công tác bảo tàng. Chúng ta
có thể kể ra một số bảo tàng tiêu biểu như: Bảo tàng Hồ Chi Minh, Bảo tàng lịch
sự Việt Nam, Bảo tàng quân đội, Bảo tàng văn hoá các dân tộc, Bảo tàng Hải
dương học.v.v… trên thế giới có các bảo tàng nổi tiếng như bảo tàng Hoàng Gia
(Anh), Bảo tàng Luvơrơ (Pháp), Bảo tàng Ecgionutát (Nga), Bảo tàng Cố
cung (Trung Quốc)… với khối lượng khổng lồ hiện vật lịch sự, những tác phẩm
nghệ thuật thể hiện sự sáng tạo, tài năng và trí tuệ bất tận của con người lúc
nào cũng đón tiếp với số lượng lớn khách du lịch.
Lễ hội: Bất cứ thời đại nào, bất cứ dân tộc
nào, và bất cứ mùa nào cũng có những ngày lễ hội. Lễ hội là hoạt động sinh hoạt
văn hoá cộng đồng diễn ra trên địa bàn dân cư trong thời gian và không gian xác
định nhằm nhắc lại những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử hay một huyền thoại,
đồng thời là dịp để hiểu biết cách ứng xử văn hoá của con người với thiên nhiên
thần thánh và con người với xã hội. Các lễ hội có sứa hấp dẫn du khách không
kém gì các di tích lịch sự văn hoá. Lễ hội có hai phần: phần nghĩ lễ và
phần hôị:
- Lễ là những nghi thức tiến hành theo
những quy tắc, luật tục nhất định mang ý nghĩa biểu trưng nhằm đánh dâú hoặc kỷ
niệm về một nhân vật hay một sự kiện lịch sử hay một huyền thoại với mục đích
tôn vinh và phàn ánh ước nguyện mong muốn nhận được sự giúp đỡ từ đối
tượng thờcúng.
- Hội là nơi tổ chức các hoạt động vui chơi
giãi trí hiện đại mang sắc thái dân gian phản ánh trình độ phát triển xã hội
thời thời đó, phản ánh đời sống kinh tế, trình độ dân trí và tâm tư tình cảm
của người dân địa phương.
Nhà nghiên cứu
M.Bachie cho rằng: “Thực chất lễ hội là cuộc sống
được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò diễn, đó là cuộc sống lao động và
chiến đấu của cộng đồng dân cư, tuy nhiên bản thân cuộc sống không thể thành lễ
hội nếu như nó không được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới tâm
linh, tư tưởng của các bieu tưởng, vượt lên trên thế của những phương tiện và
điều kiện tất yếu. Đó là thế giới và cuộc sống thứ thoát li tạm thời, thực tại,
hữu hiệu, đạt tới hiện thực, lý tưởng mà ở đó mọi thứ phát triển đẹp đẽ, lung
linh siêu việt và cao cả”
GS.Phan Đăng Nhật cho rằng: “Lễ
hội là kho tàng lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vô số những lớp phong tục tín
ngưỡng, văn hóa, nghệ thuật và cả các sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc.
Lễ hội còn là bảo tàng sống về các mặt sinhhoạt văn hoá tinh thần của người
Việt. Chúng đã sống, đang sống và với đặc trưng của mình, chúng tạo nên sức
cuốn hút và thuyết phục mạnh mẽ nhất.”
Các yếu tố của lễ hội ảnh hưởng
tới việc thu hút khách du lịch:
-
Yếu tố thời gian: Các lễ hội nhìn chung thường diễn ra vào mùa xuân, thời điểm
bắt đầu mỗi năm mới con ngườicó thời gian rảnh rỗi nên họ đi lễ ngaòi cầu lộc,
cầu may còn là cách để nạp một nguồn năng lượng mới để “ Chiến đấu với đời”
-
Quy mô lễ hội: Các lễ hội có quy mô lớn, nhỏ khác nhau điều này ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động du lịch và khả năng thu hút khách. Ở Việt Nam, các lễ hội có
quy mô lớn như: Giỗ Tổ Hùng Vương, lễ hội yên Tử, lễ hội chùa Hương thu hút một
lượng khách rất lớn.
-
Lễ hội thường được tổ chức tại những di tích lịch sử văn hoá. Điều đó cho phép
khai thác tốt hơn cả di tích lẫn lễ hội vào mục đích du lịch.
Tiềm năng du lịch gắn với dân
tộc học: Mỗi dân tộc có những điều kiện sinh
sống, những đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán, hoạt động sản xuất mang những
sắc thái riêng. Và con người khi đi du lịch chính là đi tìm “những xúc cảm mới
lạ” mà quê mình không có. Cảm xúc khác lạ đấy chính là những tập tục là về cư
trú, thói quen ăn uống sinh hoạt, kiến trúc cổ, trang phục dân tộc.v.v… Việt
Nam với 54 dân tộc anh em vẫn còn giữ riêng bản sắc của mỗi vùng. Chẳng hạn như
du khách tới Tây Nguyên, về việc thưởng ngoạn thắng cảnh văn hoá của Người Tây
Nguyên còn có thể tham quan, tìm hiểu đời sống cảu các dân tộc như Eđê, Mơnông,
tham gia lễ hội Đâm Trâu, tham quan nhà Rông, uống rượu cần, múa Cồng Chiêng
cùng bà con các dân tộc. Càng gần gũi với đồng bào miền cao này, người ta càng
cảm thấy ngạc nhiên và rạt rào tình cảm quý mến. Đời sống của đồng bào giản đơn
nhưng tâm tình khá sâu sắc. Tưởng nghĩ của đồng bào và văn hoá truyền thống
phong phú, vừa thực tế, vừa mơ mộng….
Văn hóa ẩm thực: Người ta nói ăn uống là biểu hiện của
văn hóa. Mỗi quốc gia có một quan niệm khách nhau và vì vậy hình thành phong
cách ẩm thực riêng cho mình. Nguyễn Tuân đã từng nói: “Ẩm thực là một dòng chảy không
ngừng, không nghỉ như con sông nó đi qua bao tầng nấp, bờ bãi của kinh nghiệm
ăn và sống mới phát triển thành nghệ thuật. Chủ quan, cảm tính là yếu tố không
thể không tránh khỏi. Nhưng như mọi hiện diện của đời sống, ẩm thực cũng là một
ấn tượng, một thói quen, một ký ức hay một kỷ niệm.”
Nếu như người
nước ta chú trọng đến đồ ăn và cách chế biến thức ăn thì đối với người Pháp,
thức ăn chỉ là yếu tố tạo nên chất lượng vật chất, còn chất lượng thực sự của
bữa ăn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Một cách trang trí bàn ăn độc đáo, một
bức tranh trên tường phù hợp, bộ khăn trải bàn mang từ miền đất xa xôi đi cùng
với bộ đồ ăn lạ mắt…. Tất cả đều mang theo mình một câu chuyện, ẩn chứa một sự
tò mò thú vị cho khách. Với người Pháp, việc mời một người khách tới là “chịu
trách nhiệm về hạnh phúc của họ trong một thời gian dưới mái nhà của mình”.
Một bữa ăn truyền thống của người Pháp được sắp đặt như một bản giao hưởng hay
vở kịch có 5 màn gồm: món nguội nhấm nháp, món nhẹ đầu bữa, món chính thường là
thịt và cá, tiếp đến là pho mát và sau cùng là món tráng miệng. Theo triết lý
của người Pháp: “bữa ăn là duy nhất mà ta không
cảm thấy tẻ nhạt nhạt ngay từ lúc đầu”
Ngày nay, việc
đưa văn hóa ẩm thực vào các chương trình du lịch đã trở nên phổ biến. Đó là
cách đểlấy tiền của
du khách một cách lịch sử nhất. Việc xây dựng các chương trình du lịch ẩm thực
thường được các công ty tổ chức thành 2 lọai: Chương trình du lịch chuyên biệt
và chương trình du lịch kết hợp.
Đến Việt Nam,
du khách có thể thưởng thức các hương vị ẩm thực khác nhau của mỗi vùng, mỗi
miền. Du khách có thể thưởng thức món phở với loại nước dùng bác học, chả cá
Lã vọng (Hà Nội); thưởng thức cơm vua ở cố đô Huế; Bò tái cầu mống ở Quảng Nam;
Giang nam dã hạc (miền Nam)… Tất cả đều tạo hướng đi mới cho ngành du lịch
trong việc tạo ra nhiều sản phẩm du lịch độc đáo phục vụ khách du lịch.
Chữa bệnh bằng thảo dược đông trùng hạ thảoCông dụng chăm sóc sắc đẹp bất ngờ mà nước gạo có thể mang lại cho bạn chính là làn da trắng mịn màng. Bí quyết làm đẹp bằng nước vo gạo được sử dụng từ xa xưa, khi mỹ phẩm còn chưa ra đời, cách làm da trắng đẹp này vừa đơn giản vừa không tốn kém mà hiệu quả lại cao.
Trả lờiXóaChống da lão hóa bằng collagen thiên nhiênNước gạo chứa Vitamin B5 rất có lợi cho da, dùng nước gạo rửa mặt, đắp mặt nạ hay tắm thường xuyên để ngăn chặn sự lão hóa và giúp da trở nên bóng đẹp hồng hào.
Cách làm đẹp tại nhà đơn giản mà hiệu quảHòa tan giấm và muối vào trong nước theo tỉ lệ: 9 nước, 3 giấm, 1 muối, dùng khăn nhúng vào dung dịch và lau lên mặt. Áp dụng ngày 2 lần sáng và tối. Nghe có vẻ khá lạ, tuy nhiên loại mặt nạ trắng da này hiệu quả rất tuyệt hảo, lại nhanh thấy kết quả, da trắng sáng, đặc biệt là đẩy lùi cả mụn cám nữa.
Cách sử dụng kem chống nắng làm đẹp hiệu quả an toànDầu ô liu có nhiều công dụng làm đẹp toàn diện rất hiệu quả và bất ngờ. Những kinh nghiệm thực tế mà dầu ô liu đã mang lại trong quá trình làm đẹp không thể phủ nhận.
Những thực phẩm tốt cho mắt từ thiên nhiênDầu ô liu có nhiều công dụng làm đẹp toàn diện rất hiệu quả và bất ngờ. Những kinh nghiệm thực tế mà dầu ô liu đã mang lại trong quá trình làm đẹp không thể phủ nhận.
Giải độc mát gan từ thiên nhiênĐứng đầu bảng trong việc làm trắng da, dầu ô liu có tác dụng dưỡng ẩm đồng thời cung cấp các dưỡng chất giúp tăng cường sức sống cho làn da. Với những cách thực hiện đơn giản, rẻ tiền và dễ kiếm, dầu ô liu sẽ cho bạn một làn da trắng sáng rạng ngời, một làn da mềm mại mượt mà, tự nhiên.
Cách trị sẹo lồi bằng phương pháp tự nhiên an toàn hiệu quảTrứng gà có thành phần chính giúp làm sạch da là enzyme Lysozyme với khả năng tiêu diệt vi khuẩn giúp làm sạch sâu dưới da, rất tốt cho da nhờn. Nhờ làm sạch chất nhờn, se khít lỗ chân lông nên mặt nạ này còn có thể ngăn ngừa mụn.