1.1 Các khái niệm cơ bản về du
lịch
1.1.1 Du lịch
Du 1ịch được hình thành và
phát triển theo nhu cầu đời sống của con người từ những ngày xa xưa.
Ngày nay khi khoa học kỹ thuật phát triển, giao thông phát triển, nền
kinh tế phát triển đời sống con người được nâng lên thì nhu cầu phát
triển du lịch càng lớn. Tùy theo điều kiện kinh tế mỗi nước, con
người đang nghĩ đến việc dành một phần thu nhập của mình hàng năm
cho du lịch; trong số những nhu cầu của con người, nhu cầu về Du lịch
chưa bao giờ được thỏa mãn, càng đi du lịch cuộc sông của con người
càng được nâng cao.
Du lịch càng phát triển thì
khuynh hướng tiêu thụ dịch vụ du lịch cơ cấu chi tiêu của con người
đang tạo nên thị trường du lịch rộng lớn. không còn ở phạm vi một
ngành kinh tế hay ở̉ một nước. Ngày nay những máy bay siêu âm loại
lớn với đầy đủ tiện nghi, những tàu thủy có đủ điều kiện cho con
người sống gần với biển cả, những đoàn xe lửa liên quốc gia, những
xe ca chở khách kiểu mới đã tạo cho con người sự thoải mái trong
việc di chuyển trên các tuyến đường du lịch. Bên cạnh có những Trung
tâm Du lịch được hình thành với những hệ thống khách sạc tế đầy đủ
tiện nghi, những cửa hàng ăn uống, những quán café sang trọng, những
cửa hàng lưu niệm với chất lượng cao, những sản phẩm mang tính đặc
sản của một vùng, một địa phương theo thị hiếu quốc tế. Tuy vậy
người đi du lịch không chỉ thỏa mãn những nhu cầu về vật chất mà
còn quan tâm đến cả nhu cầu về văn hóa, tinh thần. Do đó, ở nhiều
nước trên thế giới đã tiến hành cải tạo các danh lam thắng cảnh,
trùng tu và nâng cao tính thẩm mỹ của nhưng công trình văn hóa: xây
dựng các di tích lịch sử… để đáp ứng các yêucầu của khách du lịch.
Rõ ràng du tịch đã trở thành
một ngành kinh doanh tổng hợp. Hoạt động kinh doanh du lịch phát triền
kéo theo những hoạt động sản xuất kinh doanh khác phát triển theo,
hàng hóa sản xuất ra không chỉ để phục vụ cho các dịch vụ du lịch
mà còn bán cho khách với Trung tâm du lịch đã trở thành những Trung
tâm ngoại thương, xuất khẩu tại chỗ. Hoạt động kinh doanh Du lịch đã
góp phần vào mở mang các ngành nghề sản xuất, giải quyết việc làm
cho rất nhiều lao động, chỉ tính riêng lưu lượng lao động trong ngành
Du lịch nhiều nơi đã chiếm 50% dân số, nếu tính cả lao động dịch vụ
thương mại ở̉ các Trung tâm du lịch thì tỷ lệ đó còn cao hơn nhiều.
Một yêu cầu khách quan khác là
hoạt động Du lịch đã làm cho đời sống văn hóa của nhân dân ở các khu
du lịch được nâng cao. Khách du lịch và cả người địa phương đều mang
trong lòng ý niệm hành hương, một cảm xúc tốt đẹp.
Tóm lại, nếu nói Du lịch là sự
di chuyển của một cá nhân hay một tập thể từ vùng này đến vùng
khác, từ nước này đến nước khác để thỏa mãn những nhu cầu về vật
chất và tinh thần nhằm tạo cho cuộc sống tươi đẹp thêm thì phục vụ du
lịch lại là một guồng máy sản xuất và cung ứng các dịch vụ từ
công tác tuyên truyền quảng cáo, vận chuyển, hướng dẫn đến việc phục
vụ ăn, ngủ, vui chơi giải trí, hoạt động xã hội… đòi hỏi được tiến
hành một cách đồng bộ, ăn khớp nhịp nhàng và yêu cầu ngày một được
cải tiến. nâng cao phù hợp với thị hiếu của khách du lịch.
Đối với những người đi du lịch,
điều mà họ quan tâm đầu tiên là cảm tưởng mới mà họ nhận được ở nơi
họ đến du lịch, có thể nói ngành Du lịch là ngành xuất khẩu các
cảm tưởng. Do vậy các dịch vụ du lịch phải làm sao tạo được cảm
tưởng mới cho khách, gợi cho họ những cảm tưởng đẹp. Mỗi đất nước,
mỗi dân tộc có những cái đẹp đặc trưng khác nhau, ở nước này dân tộc
này muốn tìm hiểu cái đẹp ở nước khác, dân tộc khác. Vì vậy trong
các dịch vụ du lịch phải mang sắc thái của dân tộc, trong đó tính
dân tộc độc đáo tiêu biểu phải được chọn lọc, nâng cao tạo được cảm
xúc tốt đẹp cho khách. Đây là một yêu cầu lớn của những người làm
công tác du lịch. Chính vì vậy mà Du lịch có thể xem như một dạng
nghỉ ngơi tích cực của con người, đồng thời nó là một thành phần
không thể thiếu được trong việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của con
người trong thời đại hiện nay.
Du lịch bắt nguồn từ tiếng
Pháp theo từ “Tour” mà chúng ta thường hiểu là một cuộc hành trình
bao giờ cũng trở lại điểm xuất phát. Từ nhũtng năm 30 của thế kỷ
này có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu những mặt khác nhau của
hiện tượng Du lịch để đưa ra 1 định nghĩa chính xác. Nhưng nhìn chung
việc định nghĩa Du lịch gặp rất nhiều khó khăn vì :
1) Du lịch có 2 nghĩa. Một mặt
khi nói đến Du lịch người ta hiểu rằng đó là cuộc hành trình và lưu
trú tạm thời của con người ở một nơi khác (cách xa nơi ở thường xuyên
của họ) để nghỉ dưỡng chữa bệnh, thỏa mãn các nhu câu về văn hóa,
nghệ thuật, lịch sử, giao lưu tình cảm, công vụ… Mặt
khác Du lịch được hiểu là tập hợp các hoạt động kinh doanh nhằm giúp
đỡ việc thực hiện các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con
người, thông qua việc tổ chức phục vụ vận chuyển, phục vụ lưu trú,
phục vụ ăn uống, phục vụ hướng dẫn tham quan…. Tất cả những hoạt
động nêu trên tạo nên ngành kinh doanh Du lịch.
2) Năm 1963 Hội nghị do Liên hiệp
quốc tổ chức tại Rome (Ý) để thảo luận về Du lịch đã đi đến kết
luận phạm trù khách du lịch quốc tế như sau (Khách du lịch là người
công dân của một nước sang thăm và lưu trú tại nước khác trong khoảng
thời gian ít nhất là 24 giờ mà ở đó họ không có nơi ở thường xuyên).
Nhưng cũng quy định không công nhận những người ở nước ngoài quá 1 năm
hoặc những người đi ra nước ngoài thực hiện hợp đồng lao động, hoặc
tìm nơi cư trú của mình cũng như những người ở vùng biên giới, sống ở
nước này sang làm việc ở nước khác. Phạm trù “khách Du lịch” phải
xuất phát từ những đặc điểm riêng và giai đoạn cụ thể của từng
nước. Điều này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành cơ
sở lý luận cũng như vận dụng vào thực té sản xuất kinh doanh của
Ngành.
Ngày nay lên cạnh việc đi du
lịch ở nước ngòai, con người cũng đặt ra một nhu cầu du lịch trong nước
không kém phần phong phú và đa dạng. Như vậy khái niệm chung về Du lịch
cần được nghiên cứu xuất phát từ đối tượng hoạt động của du lịch,
đó là người du khách.
Theo luật Du lịch Việt Nam: Du
lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan ,
tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
1.1.2 Khách du lịch
Đây là khái niệm có nhiều quan niệm
đưa ra. Khách du lịch là đối tượng trực tiếp tham gia vào quá trình hướng dẫn
du lịch của hướng dẫn viên, là đối tượng của các đơn vi phục vụ và kinh doanh
du lich.
Nói đến du lịch người ta hiểu rằng
đó là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người đến nơi khác nhằm mục
đích thoả mãn mọi nhu cầu về nghỉ dưỡng, chữa bệnh, văn hoá, nghệ thuật, thể
thao.v.v… Đối với hoạt động du lịch, con người với vai trò là một du khách có
nhu cầu du lịch, rời khỏi nơi cư trú để thực hiện tour du lich. Điều này có nghĩa
để trở thành một khách du lịch, con người phải hội tụ các điều kiện sau:
- Có thời gian rỗi
- Có khả năng thanh toán
- Có nhu cầu cần đươc thoã mãn.
Nhà kinh tế học người Ao, Lozep
Stander định nghĩa: Khách du lịch là hành khách xa hoa, ở lại theo ý
thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thoả mãn những nhu cầu cao cấp mà không
theo đuổi mục đích kinh tế.
Kripendort đưa ra cách nhìn nhận chủ
quan phiến diện của mình về du khách như sau: là nhũng kẻ nực cười,
ngốc nghếch ít học, những nhà giàu có, quen thói bóc lột và vô cảm với môi
trường.
Năm 1963, Hội nghị do liên hiệp quốc
tổ chức tại Rôma (Ý) để thảo luận về du lịch đã đi đến kết luận phạm trù khách
du lịch quốc tế như sau: Khách du lịch là công dân của một nước sang
thăm và lưu trú tại nước khác trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ mà ở đó
họ không có nơi ở thường xuyên, nhưng cũng không công nhận những người nước
ngoài ở quá một năm hoặc những người đi ra nước ngoài thực hiện hợp đồng, hoặc
tìm nơi lưu trú của mình cũng như những người ở vùng biên giới, sống nước này
sang làm việc nước khác.
Theo luật Du lịch Việt Nam: Khách
du lịch là người đi du lịch hoặc kết
hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập
ở nơi đến.
1.1.1 Tài nguyên du lịch
Theo luật Du lịch Việt Nam: Tài
nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu
tố tự nhiên, di tích lịch sử, văn hoá, công trình lao động sáng tạo của ocn
người và các giá trị nhân văn khác có thể sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch,
là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô
thị du lịch
1.1.2 Điểm và khu du lịch
Đối với quốc gia, vùng, miền và các
nhà làm du lịch thì điểm và khu du lịch được xem là nguồn lực, là một trong
những nhân tố quan trọng góp phần cạnh tranh, khai thác nguồn khách và đem lại
nguồn thu cho mình. Tuy nhiên giữa điểm du lịch và khu du lịch có những điểm khác
biệt cần phải nhận thức giúp các nhà quản lý và các doanh nghiệp du lịch có
chiến lược xây dựng, khai thác, phát triển, marketing phù hợp. Vì vậy chúng ta
có thể phân biệt điểm du lịch và khu du lịch dựa trên các cơ sở sau:
v Giống
nhau:
- Gắn liền với nơi có
tài nguyên du lịch hấp dẫn
- Có kết cấu hạ tầng và
dịch vụ du lịch cần thiết để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch
- Tạo điều kiện công ăn
việc làm cho cộng đồng địa phương
- Đem lại nguồn thu và
quảng bá cho cho đất nước và cộng đồng địa phương.
v Khác
nhau:
TT
|
Cơ
sở phân biệt
|
Điểm
du lịch
|
Khu
du lịch
|
1
|
Khái
niệm
|
Điểm
du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của
khách du lịch. (Điều 4 –Luật Du lịch)
|
Khu
du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch
tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của
khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế – xã hội và môi trường. (Điều 4 – Luật
Du lịch)
|
2
|
Phân
loạt
|
Có
2 loại:
- Điểm du lịch quốc gia
- Điểm du lịch địa phương
|
Có
2 loại:
- Khu du lịch quốc gia
- Khu du lịch địa phương
|
3
|
Sự
đáp ứng nhu cầu của khách du lịch
|
Đáp
ứng nhu cầu tham quan của khách du lịch là chủ yếu
|
Đáp
ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch
|
4
|
Quy
mô và sức chứa du khách tối thiểu
|
-
Đối với điểm du lịch quốc gia: Bảo đảm phục vụ ít nhất một trăm nghìn
lượt khách tham quan một năm.
- Đối với điểm du lịch địa phương: Bảo
đảm phục vụ ít nhất mười nghìn lượt khách tham quan một năm.
(Điều 24 – Luật
Du lịch)
|
-
Đối với khu du lịch quốc gia: Có diện tích tối thiểu một nghìn héc
ta; bảo đảm phục vụ ít nhất một triệu lượt khách du lịch một năm.
- Đối với khu du lịch địa phương: Có
diện tích tối thiểu hai trăm héc ta; bảo đảm phục vụ ít nhất một trăm nghìn
lượt khách du lịch một năm.
(Điều 23 – Luật
Du lịch)
|
Kinh doanh tại điểm và khu du lịch
bao gồm nhiều nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này xuất phát từ nhu cầu và đỏi
hỏi chính đáng từ khách du lịch. Các sản phẩm, dịch vụ tại điểm và khu du lịch
càng phong phú, độc đáo, chất lượng, giá cả hợp lý thì càng chiếm được cảm
tình, tiêu dùng và quay lại của du khách. Điều này đỏi hỏi những nhà quản lý,
người kinh doanh tại điểm, khu du lịch cần có chính sách về sản phẩm cũng như
giá hợp lý để “kích thích” khả năng tiêu dùng của khách du lịch.
Nhìn chung các lĩnh vực kinh doanh
tại điểm và khu du lịch gắn liền với việc đầu tư, bảo tồn, nâng cấp tài nguyên
du lịch đã có, xây dựng kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp,
phát triển và bảo vệ tài nguyên du lịch theo hướng bền vững.
1.1.3 Tuyến du lịch
Đây là khái niệm liên quan đến kinh
doanh du lịch lữ hành. Từ những điểm, khu du lịch có sẵn tại các vùng, địa
phương, quốc gia khác nhau khách du lịch hoặc thông qua các công ty lữ hành
vạch ra cho mình những tuyến du lịch nhăm thoả mãn nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí,
và hiểu biết của mình. Có thể chia tuyến du lịch thành:
- Tuyến du lịch quốc tế
- Tuyến du lịch nội địa
- Tuyến du lịch ngắn ngày
- Tuyến du lịch dài ngày
- Tuyến du lịch văn hoá
- Tuyến du lịch danh lam thắng cảnh
….
Tuy có sự phân chia nhưng nhìn chung
trong các tuyến du lịch đều có sự thống nhất và xen kẽ giữa các yếu tố. Ví dụ
khi tham quan tuyến du lịch: Vũng Tàu – TP Hồ Chí Minh – Cần Thơ (3 ngày 2
đêm), là một tuyến du lịch ngắn ngày, du khách vừa tham quan vừa tham quan các
di tích lịch sử văn hoá, vừa thưởng ngoạn cảnh đẹp, vừa vui chơi giải trí…
Theo Luật Du lịch Việt Nam: Tuyến
du lịch là lộ trình liên kết các khu
du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao
thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không
1.1.4 Xúc tiến du lịch
Theo Luật Du lịch Việt Nam: Xúc tiến
du lịch là hoạt động tuyên truyền,
quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch.
1.1.5 Du lịch bền vững
Theo Luật Du lịch Việt Nam:Du lịch
bền vững là sự phát triển du lịch đáp
ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu
về du lịch của tương lai.
1.2 Lịch sử hình thành, phát
triển du lịch thế giới và Việt Nam
1.2.1 Lịch sử hình thành và
phát triển du lịch thế giới
Cũng như nhiều ngành khoa học, kỹ
thuật, nghệ thuật sản xuất, ngành du lịch được hình thành sớm trong bối cảnh
lịch sử nhất định. Lịch sử du lịch có nhiều bước thăng trầm, cả sự thành công
lẫn thất bại. Nhìn chung, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghiệp đề có ảnh
hưởng tích cực đến du lịch. Chiến tranh, thiên tai, đói kém… là những lí do cơ
bản kìm hãm sự phát triển của du lịch. Những hiểu biết về lịch sử hình thành và
phát triển du lịch trong quá khứ sẽ rất bổ ích cho người là du lịch hôm nay.
Lịch sử sẽ cung cấp nhiều bài học quý báu cho các hoạt động và chính sách du
lịch hiện tại.
Về cơ bản, các nhà nghiên cứu về
lịch sử du lịch cho rằng sự hình thành và phát triển ngành du lịch từ khi xã
hội loài người bước vào quá trình phân công lao động, khi nghề thủ công được
tách khỏi sản xuất nông nghiệp, khi xã hội bắt đầu có sự phân công giai cấp.
Khả năng tích lũy lương thực là một yếu tố rất quan trọng cho việc tạo ra nhu
cầu du lịch theo nghĩa sơ đẳng nhất.
Thời cổ đại:
Trong giai đoạn này có những phát
minh quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc đi lại. Đó là phát minh ra thuyền
buồm của người Ai Cập vào khoảng thiên niên kỷ thứ tư trước công lịch. Cũng
thời gian này súc vật được thuần hóa không những là nguồn thức ăn dự trữ mà còn
được sử dụng để chuyên chở lương thực, vũ khí và chính con người. Phát minh ra
bánh xe của người Sumeri vào khoảng 3500 t.CN là một sự kiện có ý nghĩa vô cúng
to lớn đối với việc đi lại của loài người.
Vào khoảng 3000 năm trước công
nguyên, Ai cập là một điểm thu hút khách du lịch trên thế giới. Họ đến để chiêm
ngưỡng các kim tự tháp và các kỳ quan khác của đất nước văn minh, thịnh vượng
này. Ngoài các nhà hoạt động chính trị, các thương gia, giới quý tộc thường
xuyên phải đi lại trong nước và ra nước ngoài, còn hầu hết những người có nhu
cầu đi lại là những người tín ngưỡng sùng bái tôn giáo. Trong những ngày lễ,
hàng ngàn người đã hành hương đến các nhà thờ, tu viện… để cầu nguyện và cúng
bái. Cuộc hành trình của họ kéo dài từ ngày này sang ngày khác, có khi tới hàng
tháng. Trong thời gian này, khi chưa có hoạt động kinh doanh ăn, nghỉ, thì
những người này thường phải ăn nghỉ nhờ những người quen. Dần dần dọc theo
những con đường dẫn đến các khu Thánh địa, các nhà trọ, quán ăn đã được xây dựng
để phục vụ khách bộ hành ăn nghỉ và bắt đầu hình thành hoạt động kinh doanh
trong du lịch tôn giáo.
Từ thế kỷ IV trước công nguyên, Hy
lạp đã phát triển cường thịnh, giai cấp chủ nô đã đi đến các vùng đất ở Địa
Trung Hải để thoả mãn nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh và nhằm mục đích
nghỉ dưỡng, chữa bệnh ở một số nguồn chất khoáng. Phương tiện đi lại chủ yếu là
cưỡi la, đi xe bò, người giàu thì đi bằng xe ngựa, bằng kiệu. Du lịch công vụ
cũng rất phát triển trong thời kỳ Hy lạp cổ đại, các chính khách, thương gia
thường xuyên phải đi để thực thi các nhiệm vụ đặc biệt. Họ được cung cấp đầy đủ
các dịch vụ về ăn uống, nghỉ ngơi, thậm chí có cả người dẫn đường, bào vệ.
Năm 776 trước công nguyên, đại hội
thể thao Olimpic đầu tiên tổ chức ở Hy lạp thu hút nhiều người tham dự.
Xung quanh những khu vực thi đấu người ta xây dựng nhiều cơ sở để phục vụ ăn
nghỉ, vui chơi cho các vận động viên và khán giả. Và loại hình du lịch thể thao
đã xuất hiện ở bán đảo này.
Các quan lại giàu có người châu Á
lại thích đi du lịch bằng kiệu hoa trang trí lộng lẫy có cửa chớp hoặc rèn che
bao quanh, giá nâng được đặt trên vai của các phu khiêng kiệu. Bên cạnh đó là
hàng đàn lạc đà đưa các du khách đi theo dọc con đường tơ lụa của Trung Quốc,
nối dài từ Bagdad tới AdenSamarkand và Timbukfu. Kinh coran đề nghị các chuyến
đi nên bắt đầu vào thứ 6, sau buổi cầu kinh trưa nhưng phần lớn các đoàn lữ
hành đều đi từ sáng sớm đến chiều tối để có thể đi được 25 dặm một ngày. Họ
nghỉ trưa ở các trạm và ngủ đêm trong các căn lều tự dựng bên đường hay các
trạm nghỉ.
Trong số những chuyến đi biển đầu
tiên, những chuyến đi của cư dân vùng Đông Nam Á đến các khu vực ở châu Đại
Dương thật đáng ngạc nhiên. Bằng thuền độc mộc nhỏ, dài chừng 3 –
4m, họ đã vượt hàng trăm km đến tận các đảo Marquessas, Toumotu, Society…
Thời Trung Cổ:
Sự suy tàn của các quốc gia cổ đại
trong đó có đế quốc La Mã từ thế kỷ thứ IV và từ khi đế quốc Tây La Mã diệt
vong (476) đã làm cho hoạt động du lịch bị ảnh hưởng sâu sắc. Nhiều kiệt tác
kiến trúc, nghệ thuật, xã hội, văn học bị vứt bỏ, hủy hoại. Phương tiện đi lại
trên bộ duy nhất là xe ngựa và các xe ngựa kéo. Cho tới tận thế kỷ thứ X, du
lịch không còn an toàn, tiện nghi và thoải mái như trước đó. Chiến tranh liên
miên, biên giới biến động làm cho việc đi lại trở nên khó khăn. Đường xá trở
thành các rảnh bẩn thỉu và đầy ngập bọn trộm cướp. Vì vậy những chuyến đi du
lịch cũng ít ỏi và khá mạo hiểm.
Thời kỳ này, đạo Thiên Chúa đã trở
thành một lực lượng lớn mạnh ở châu Au. Nó hậu thuẫn mạnh mẽ cho các cuộc chiến
tranh nên đã thay thế và trở thành tư tưởng thống soái. Du lịch tôn giáo là
loại hình chủ yếu trong giai đoạn này. Những cuộc thập tự chinh tôn giáo, hành
hương về thánh địa, nhà thờ diễn ra một cách rầm rộ. Các quán trọ hai bên đường
mọc lên để phục vụ mọi người không phải vì mục đích kinh tế mà đa phần chỉ như
dấu hiệu về sự đóng góp của con chiên cho sự sáng danh Đức Chúa Trời. Xuất hiện
những người chuyên hướng dẫn cho khách đi lại, cách hành lễ…
Thời kỳ này dã xuất hiện những
chuyến viễn du dài ngày đầu tiên của loài người với những tìm tòi khám phá mới
đã phá vỡ tầm hiểu biết hạn hẹp của các cộng đồng Trung cổ và khơi dậy tính
hiếu động, tò mò của con người. Con người đã có những chuyến đi dài ngày nhằm
mở rộng “cánh cửa nhận thức” để được khám phá những vùng đất mới, những nền văn
minh nhân loại.
Năm1275, một thanh niên tên là Marco
Polo theo cha và chú sang Trung Quốc trong một chuyến buôn. Tại đây, Marco Polo
được gặp Hốt Tất Liệt. Bị cuốn hút bởi uy thế của Hoàng đế và một thế giới bí
ẩn, khác lạ ở phương Đông, ông đã ở lại đây 17 năm. Khi về nước ông đã viết
cuốn: “Marco Polo phiêu lưu kí” kể về những gì mắt thấy tai nghe ở xứ Trung Hoa
kì bí. Có thể coi đây là một trong những tài liệu hướng dẫn du lịch đầu
tiên trên thế giới.
Cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI những
hiểu biết về địa lý, thiên văn, hải dương và kỷ thuật đi biển đã giúp con người
có những phát kiến địa lý lớn. Từ năm 1492 đến 1504, Chistofe Colombo đã tiến
hành bốn cuộc hành trình thám hiểm sang một lục địa mới mà sau này gọi là Châu
Mỹ. Những chuyến đi này không phải vì mục đích du lịch, nhưng trên ý nghĩa nhất
định, đã mở hướng cho hoạt động lữ hành quốc tế trên biển.
Năm 1548, Vasco de Gama đã cùng thủy
thủ đoàn đi dọc theo bờ biển Tây Phi xuống phía Nam. Khi gần đến mũi cực Nam
châu Phi, đoàn thuyền của ông bị bão thổi dạt sang bờ đông của Nam Mỹ. Lúc đó
ông không hề biết rằng đây là một lục địa mới. Ông cho thuyền quay về phía Đông
hướng tới Hảo Vọng Giác. Vượt qua nhiều ngày lênh đênh trên biển đoàn thuyền
của ông đã đến được An Độ, Thành công của ông đã mở ra một chân trời mói trong
sự thông thương buôn bán Đông Tây bằng đường biển.
Thời Cân Đại
Cuộc cách mạng tư sản, bắt đầu bằng
cuộc cách mạng ở Netherland (1564 – 1609), đến cách mạng tư sản Anh (1642 –
1660), cách mạng tư sản Mỹ (1776 – 1783), cách mạng tư sản Pháp (1776 – 1883)…
đã mở ra cho con người sự giao lưu mới với thiết chế tự do tư sản.
Vào năm 1784, James Watt đã chế tạo
ra động cơ hơi nước liên tục đầu tiên. Phát minh này châm ngòi nổ cho cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất, mở ra chân trời mới cho ngành vận chuyển và ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triể du lịch loài người.
Năm 1885, một kỹ sư người Đức là
Benz đã sáng chế ra chiếc ôtô đầu tiên. Do tính tiện ích của nó, ngay năm sau,
công nghiệp ôtô đã ra đời đã góp phần đáng kể cho việc thu hút và vận chuyển du
khách đi du lịch.
Về phương tiện thông tin liên lạc,
thời kì này con người đã phát minh ra các phương tiện truyền tin không gian nhu
điện tín (1876), điện thoại (1884), radio (1895)…
Nhu cầu tích tụ tư bản thúc đẩy giai
cấp tư sản cho xây dựng mạng lưới giao thông lớn cùng với các phương tiện vận
chuyển ngày càng hiện đại và mở rộng các dịch vụ ở nhiều nơi trên thế giới.
Những cơ sở hạ tầng đó về khách quan cũng tạo thuận lợi cho các tuyến lữ hành
xuyên quốc gia. Nếu trước kia, người ta chú ý tới các kỳ quan thế giới như kim
tự tháp (Ai Cập), vườn treo Babilon, đền thờ Nữ thần Artemis ở Ephese.v.v.. thì
nay đã mở ra nhiều nơi khác với rừng, bờ biển đẹp và suối khoáng.v.v.. Du lịch
quốc tế có xu hướng tăng trong thế kỷ XIII. Đó là chuyến du lịch của các sinh
viên đại học sau khi tốt nghiệp đã đến các nước để kiểm chứng thực tế trong
2-3 năm trở về áp dụng trong các Công ty, xí nghiệp của mình.
Cuộc hành trình du lịch tập thể đầu
tiên ở Anh do Thomas Cook tổ chức năm 1841 cho 570 người đi bằng tàu hỏa từ
Leicester đến dự hội nghị của những người chống nghiện rượu tại Laoughborough,
cách 12 dặm đánh dấu một bước ngoặc mới trong ngành kinh doanh du lịch. Một năm
sau ông thành lập Văn phòng du lịch đầu tiên ở Anh nhằm tổ chức cho người Anh
đi du lịch trong nước và ra nước ngoài. Ông bắt đầu có những chuyến du hành
trong phạm vi hẹp ở nước Anh phục vụ cho học sinh, phụ huynh, các cặp vợ
chồng.… tới những nơ mà họ chưa có dịp tới. Nắn bắt nhu cầu muốn đi nghỉ hè và
tham quan du lịch ở pháp, năm 1854, hãng Thomas Cook và các con đã bắt đầu tổ
chức các tuyến du lịch sang châu Au.
Thành công của Thomas Cook đạt được
là do khả năng thông hiểu nhu cầu về du lịch ở thời đại ông. Ông nắm bắt được
những đòi hỏi, mong muốn và những yếu tố thúc đẩy du lịch để triển khai trong
các tour của mình.
Năm 1876, Thomas Cook cho ra mắt một
loại hoá đơn đặc biệt gọi là “Phiếu thanh toán”, tiền thân của sec du lịch hiện
nay. Nhờ có hoá đơn này du khách có thể thanh toán tại hàng trăm khách sạn
trong danh mục của Cook.
Công ty lữ hành Thomas Cook trong
thời gian 1850 tới 1900 là điềm báo cho một thời đại du lịch thựch sự dành cho
số đông dân chúng. Và Thomas Cook đã được nhân loại suy tôn là ông
tổ của ngành lữ hành.
Thời kỳ hiện đại:
Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa
học kỷ thuật trong ngành giao thông vận tải đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự
phát triển du lịch. Số lượng người đi đông hơn, nhanh hơn, tiết kiệm được thời
gian nên hành trình xa hơn, đến nhiều nơi hơn.
Trước chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, du lịch quốc tế đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Nhưng trong những năm
chiến tranh, du lịch quốc tế hầu như tê liệt.
Trong những năm giữa hai cuộc chiến
tranh thế giới các khu du lịch nghỉ biển lại được phục hồi và phát triển nhanh
chóng, đặc biệt là Pháp, Ytalia, Anh, HyLap, Đức… Ở những nước này đã thành lập
cơ quan Nhà nước về du lịch, một vài nước đã thành lập Bộ du lịch. Và năm 1925
thì “Liên minh Quốc tế của các tổ chức du lịch được hình thành lập”.
Trong chiến tranh thế giới thứ II,
các hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế hầu như bị đình tuệ. Cơ sở hạ tầng và
cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch phần bị phá huỷ, phần thì biến thành cơ
sở phục vụ chiến tranh.
Trong những năm đầu sau chiến tranh,
du lịch quốc tế được phục hồi rất chậm, bởi vì lúc này các nước bị tàn phá
trong chiến tranh đang bước vào giai đoạn hàn gắn vết thương chiến tranh và
khôi phục nền kinh tế đất nước.
Trong ba thập kỷ (từ những năm 50
đến những năm 80) sau chiến tranh thế giới thế II, cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật trên thế giới đã đạt được những tiến bộ vượt bậc, nó thúc đẩy ngành kinh
tế du lịch phát triển thật sự . Sự tăng trưởng trung bình năm của du lịch quốc
tế thập kỷ 1950 – 1960 khoảng 10,98%, 1960 –1970 là 8,3%, thập kỷ 1970 – 1980
là 6%, thập kỷ 1980 – 1990 khoảng 5%, trong mấy năm gần đây, tốc độ tăng trưởng
lại nâng lên 7,5 – 9%.
Cùng với sự tăng trưởng về số lượng,
sự thay đổi về cơ cấu của khách du lịch, cùng với sự gia tăng của tổng doanh
thu trong ngành du lịch, đã ra đời và phát triển nhiều loại hình du lịch. Vận
chuyển khách bằng đường bộ và đường không đã chiếm lĩnh một vị trí quan trọng
trong ngành du lịch quốc tế. Các Công ty khách sạn, lữ hành, Công tuy môi giới…
lần lượt ra đời đã làm nảy sinh cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường du lịch
quốc tế.
Kể từ khi hình thành và thoát thai
để trở thành một ngành kinh tế độc lập, có chổ đứng trong thương trường, ngành
du lịch đã có những biến đổi thăng trầm. Người ta ví ngành du lịch quốc tế như
là “một con ngựa đua đường trường, có lúc chạy nhanh, lúc mỏi mệt thì nghỉ lại
để rồi dồn sức tạo sự đột phá mang theo sứ mệnh chuyển cái Đẹp tới cho con
người”.
Xu hướng phát triển của du lịch thế
giới
Ngày nay, mặc dù một sồ khu vực trên
thế giới còn những bất đồng về chính trị, sắc tộc và tệ nạn khủng bố song xu
hướng chung của nhân loại là hoà bình, hữu nghị hợp tác và phát triển.
Các quốc gia tranh thủ thời cơ để mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn
hoá xã hội. Nhiều hiệp hội, tổ chức đã ra đời như ASEM, ASIAN, OPEC, EU v.v…
Các quốc gia đã có sự tìm hiểu lẫn nhau về văn hoá, xã hội để mở ra hướng đầu
tư thích hợp cho mình.
Du lịch có xu hướng gia tăng theo số
lượng: số lương khách, thành phần khách, loại hình, sản phẩm du lịch các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch. Theo ước tính thì hiện nay có hơn 5% dân cư thế giới
tham gia vào du lịch quốc tế. Những yếu tố được coi là nguyên nhân chính ảnh
hưởng tới sự tăng trưởng này là mức sống của người dân, giá cả các dịch vụ hạ
hơn trong khi mức thu nhập của họ tăng dần.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ II,
cơ cấu thành phần du khách có nhiều thay đổi hay còn gọi là xã hội hóa thành
phần du khách. Du lịch không còn là đặc quyền của tầng lớp quý tộc, tầng lớp
trên của xã hội nữa. Xu thế quần chúng hoá thành phần du khách trở nên phổ biến
ở nhiều nước. Lý do của hiện tượng này cũng la mức sống của người dân được nâng
lên cao, giá cả dịch vụ hàng hoá không đắt, các phương tiện giao thông vận tải,
lưu trú phong phú và thuận tiện. Nhưng điều quan trọng là chính sách của địa
phương có điểm du lịch. Ở nhiều nơi, nhà nước có chính sách khuyến khích người
dân đi du lịch do thấy được ý nghĩa của hiện tượng này đối với sức khoẻ cộng
đồng.
Nhờ sự tiến bộ của khoa học kĩ
thuật, đặc biệt là ngành công nghiệp ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ, máy bay siêu
tốc…và sự bùng nổ của công nghệ thông tin mà địa bàn du lich ngày càng mở rộng,
cự li ngày càng dài ra. Với vị trí đặc biệt của mình, sư phát triển cao
về lực lượng sản xuất và có nhiều di tích lịch sử, văn hoá mà Châu Au có ngành
du lịch quốc tế phát triển sớm mạnh và là châu lục có nhiều người đi và đến du
lịch nhất. Hiện nay du lịch quốc tế đang có xu hướng phát triển nhanh ở châu Á,
châu Phi, Châu Đại Dương, tuy nhiên khu vực Trung Cận Đông và châu Phi mới chỉ
ở mức triển vọng vì hiện tại đang có nhiều bất ổn về kinh tế và chính trị.
Căn cứ vào số khách nước ngoài tới
du lịch và số người đi du lịch ra nước ngoài của từng nước, số ngoại tệ thu
được của du khách cùng cán câu thanh toán du lịch, có thể phân ra 3 loại nước
khác nhau trong sự phát triển du lịch quốc tế:
- Các nước chủ yếu là du lịch bị động:
Hoa kỳ, Nhật Bản, Anh, Uc, Balan, CH Séc, Slovakia, NiuDilan.
- Các nước phát triển du lịch chủ động:
Tây Ban Nha, Ý, Thuỵ Sĩ, Bồ Đào Nha, Ai Cập.
- Các nước có sự phát triển cân bằng du lịch quốc tế chủ
động, bị động: Pháp,
Hunggary, Ixraen, Thổ Nhĩ Kỳ, một số nước Nam Mỹ và các nước châu Á.
Do đời sống ngày càng cải thiện cải
thiện, nhu cầu tích luỹ tăng không ngừng nên trong các chuyến du lịch, khả năng
chi trả của con người là rất cao. Nhu cầu mà con người hướng tới, bên cạnh nhu
cầu ăn uống là phục hồi, duy trì sức khỏe, vui chơi giải trí, tìm hiểu, khám
phá thế gới, tìm hiểu, khai thác thị trường và một nhu cầu đặc biệt khác là bay
vào vũ trụ.
Trên phạm vi thế giới, số khách du
lịch lớn nhất là khách đi nghỉ ở bờ biển. Trong tương lai, tỷ lệ du lịch biển
sẽ giảm đi do phát triển của du lịch trên núi.Một đặc điểm nữa có ý nghĩa lớn
đối với phân bố là tính chất giải trí là tính chất giải trí đối lập, tức người
đi du lịch thường tìm đến môi trường đối lập với nơi họ sinh sống (Vùng núi –
Vùng biển; Thành phố – Nông thôn…).
Các Tổ chức quốc tế về du lịch
v Tổ chức
du lịch thế giới (World Tourism Organisation – WTO; Organisation
Mondiale du Tourism – OLVLT):
Là 1 tổ chức quốc tế đứng đầu
và được tín nhiệm rộng rãi nhất về lĩnh vực du lịch và lữ hành.
Tổ chức này gồm 139 thành viên thuộc 139 quốc gia và hơn 350 thành
viên chi nhánh đại diện cho chính phủ quốc gia, hiệp hội du lịch, các
viện giáo dục, các công ty tư nhân gồm hàng không, khách sạn và các
nhà tổ chức tour.
Trụ sở của WTO đặt tại Madrid,
thủ đô Tây Ban Nha. Ngôn ngữ chính thức của WTO là tiếng Anh, Pháp, Nga
và Tây Ban Nha. WTO là một tổ chức liên chính phủ về xúc tiến và
phát triển du lịch do Liên hiệp quốc giao phó. Thông qua du lịch, mục
tiêu của WTO là kích thích phát triển kinh tế và tạo ra công ăn việc
làm, đẩy mạnh gìn giữ và bảo vệ môi trường và di sản cũng như tăng
cường thúc đẩy hoà bình và hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau giữa các
quốc gia trên thế giới, tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ
bản, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ và tôn giáo.
Ban đầu WTO được thành lập vào
năm 1 925 tại Hague với tên gọi là Liên minh quốc tế các tổ chức
quảng bá du lịch chính thức. Sau thế chiến thứ 2, nó được chuyển
đến Geneva và đổi tên là Liên minh quốc tế các tổ chức du lịch chính
thức (International Union for Official Tourism Organisations) viết tắt là
IUOTO.
Tháng 5 năm 1975 cuộc họp tòan
thể đầu tiên của tổ chức này diễn ra tại Madrid.
Năm 1976, WTO trở thành tổ chức
điều hành của chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP)
Năm 1977 một hiệp định hợp tác
chính thức đượcký kết với Liên hiệp quốc. Ngày 17 tháng 9 năm 1981,
tại Hội nghị Đại hội đồng của WTO lần thứ 4 tại Ý, Việt Nam đã
được kết nạp là thành viên chính thức của tổ chức này.
WTO có nhiệm vụ chính là
truyền tải sự hiểu biết về du lịch đến các nước đang phát triển.
Cụ thể hơn là WTO cung cấp nhiều kinh nghiệm về du lịch cho những mục
tiêu phát triển của các quốc gia trên thế giới.
WTO nổi tiếng về thống kê và
nghiên cứu thị trường. Việc nghiên cứu là một trong những đóng góp
quan trọng trong khuôn khổ ngành du lịch; phân chia tác động của du
lịch về kinh tế quốc gia, dự đóan trước, khảo sát những xu hướng và
công bố kết quả sẵn có.
Mục tiêu khác của WTO là phát
triển nguồn nhân lực. WTO tạo ra tiêu chuẩn cho ngành giáo dục du
lịch. WTO tổ chức những cuộc hội thảo, những khóa học từ xa và
những buổi ngọai khóa cho các nhân viên du lịch thuộc các nước thành
viên.
WTO cũng nổ lực tạo điều kiện
thuận lợi cho ngành lữ hành thế giới thông qua việc lọai bỏ hoặc
giảm các phương sách cũng như tiêu chuẩn hóa các yêu cầu về hộ
chiếu, thị thực v.v…
WTO củng cố chất lượng du lịch
thông qua sự mở rộng tự do mua bán, tiếp cận, thăm dò khách du lịch
bị tàn tật, an tòan, an ninh và những tiêu chuẩn về kỹ thuật.
v Hội
đồng du lịch và lữ hành thế giới (World Travel and Tourism Council –
WTTC)
Là một liên minh tòan cầu gồm
100 viên chức đứng đầu ở tất cả các khu vực ngành công nghiệp : lưu
trú, ăn uống, du lịch biển, giải trí, vận chuyển và lữ hành.
WTTC thành lập năm 1990 do một
Hội đồng gồm 15 thành viên dẫn dắt, triệu tập 1 năm 2 lần va 2báo
cáo cho cuộc họp hàng năm. Những họat động hàng ngày được điều hành
bởi chủ tịch và nhóm nhân viên đặt tại Anh. Mục tiêu đó là làm việc
với các chính phủ để tạo cho du lịch một chiến lược phát triển kinh
tế và ưu tiên công ăn việc làm nhằm tiến đến mở cửa và cạnh tranh
thị trường, xoá bỏ những rào cản phát triển để công nhận tiềm năng
kinh tế của ngành du lịch và khả năng phát sinh công việc; phát triển
nguồn vốn và tiến bộ kỹ thuật, kết nối cơ sở hạ tầng với nhu cầu
khách hàng.
v Hiệp
hội khách sạn quốc tế (International hotel Association – LHA)
Được thành lập năm 1969 thay thế
cho hiệp hội các nhà kinh doanh khách sạn và Liên hiệp khách sạn
quốc tế.
Mục tiêu hành động của một tổ
chức quốc tế về ngành công nghiệp nhà hàng và khách sạn nói chung
thực thi các chức năng của một hiệp hội thương mại ở mức độ quốc
tế. Hiệp hội có 4.300 hội viên ở̉ 145 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Trụ sở của Hiệp hội đặt tại Paris – thủ đô Cộng hoà Pháp.
v Hiệp
hội vận chuyển hàng không quốc tế (International Air Transport
Assoeiation – IATA):
Là một tổ chức toàn cầu về hàng
không quốc tế. Chức năng chính của IATA là tạo sự an toàn trong việc
vận chuyển hành khách và hàng hoá từ mọi
nơi ở̉ mạng lưới hàng không thế
giới đến bất cứ nơi khác bằng sự kết nối cáctuyến đường bay.
Nhiệm vụ của IATA là đại diện
và phục vụ cho ngành công nghiệp hàng không thế giới : phục vụ 4
nhóm theo sự vận hành suôn sẻ của hệ thống vận chuyển hàng không
thế giới: hành không; công chúng; các chính quyền; nhóm thứ 3 như nhà
cung cấp, nhân viên du lịch và nhân viên vận chuyển hàng hoá.
IATA hoạt động mật thiết với
tổ chức hàng không dân dụng quốc tế. Văn phòng chính của IATA đặt
tại Montreal, Canada. Cơ quan điều hành đặt ở Geneva, Thuỵ Sỹ̃, ngoài ra
còn có các văn phòng đại diện cho các khu vực trên thế giới.
Các Tổ chức trong khu vực:
v Hiệp hội Du
lịch châu Á – Thái Bình Dương (Pacific Asia Travel Association – PATA):
Đại diện cho những quốc gia ở̉
Thái Bình Dương và Châu Á hợp nhất lại để đạt được mục tiêu chung,
đó là, vượt trội về phát triển du lịch và lữ hành trong khu vực
rộng lớn này. Công việc của Hiệ̣p hội là phát triển du lịch thông
qua các chương trình nghiên cứu, phát triển, giáo dục và tiếp thị.
PATA đã hòan thành xuất sắc và tạo được tiếng vang trong số các tổ
chức thế giới.
PATA được thành lập năm 1951 tại
Hawaii với tên gọi là Hiệp hội lữ hành khu vực Thái Bình Dương
(Pacific Area Travel Association), tổ chức này có mục đích thúc đẩy sự
phát triển hợp tác trong lĩnh vực du lịch giữa các nước, các cơ quan
du lịch của các nước trong khu vực.
Các thành viên PATA bao gồm các
chính quyền, các công ty hàng không, hàng hải, các khách sạn, các
công ty du lịch
Là 1 thành viên của PATA, chi
hội PATA Việt Nam được thành lập ngày 04/01/1994
Hàng năm PATA tổ chứ chội nghị
thường niên lần lượt tại các nước thành viên nhằm trao đổi kinh nghiệm,
hỗ trợ hợp tác về du lịch giữa các nước trong khu vực.
Cơ quan quyền lực tối cao của
PATA là hội nghị thường niên, Ủy ban điều hành, Ủy ban thường trực
và Ban thư ký
Hội nghị thường niên của PATA
xem xét các họat động của Hội trong năm, có thẩm quyền sửa đổi Điều
lệ, nguyên tắc họat động và bộ máy tổ chức thông qua các vấn đề
ngân sách, xác định địa điểm của kỳ họp kế tiếp và thông qua dự
thảo nghị quyết của Hội nghị.
Tạp chí PATA, bản tin PATA là
những ấn phẩm du lịch có uy tín trên thế giới nhờ vào những thông
tin rất thời sự và tin cậy. PATA còn tổ chức hội chợ du lịch Thái
Bình Dương nhằm hỗ trợ cho việc xúc tiến hợp tác kinh doanh du lịch.
v Hiệp
hội Du lịch Châu Âu (European Travel Commission – ETC)
Là một khối liên minh chiến
lược cộng tác giữa 31 tổ chức du lịch quốc gia Châu Âu. ETC là một
tổ chức du lịch phi lợi nhuận, được thành lập năm 1948, trụ sở chính
đặt tại Brussels, Bỉ.
Mục tiêu của ETC là :
– Hỗ trợ về hợp tác du lịch
quốc tế ở các nước Châu Âu
– Trao đổi các thông tin về các
dự án phát triển du lịch và kỹ thuật tiếp thị
– Cam kết triển khai các họat
động nghiên cứu về du lịch
– Xúc tiến họat động du lịch
đến các nước ở Châu Âu, đặc biệt từ Bắc Mỹ và Nhật Bản
Hiện tại chiến lược của Hiệp
hội này tập trung vào các họat động sau :
– Cải tiến chất lượng dịch vụ
ở Châu Âu
– Kích cầu ở các nước lân cận
bằng cách bỏ Visa, đơn giản hóa các thủ tục xuất nhập cảnh
– Cải thiện môi trường kinh doanh
cho các doanh nghiệp du lịch
– Thúc đẩy phát triển du lịch
bền vững.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét