Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014

Tổng quan du lịch: Bài 3

3.1 Căn cứ theo môi trường tài nguyên
3.1.1 Du lịch văn hóa
Du lịch văn hoá là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục… gần đây du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng… để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa mãn nhu cầu của họ. Phần lớn hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với địa phương – nơi lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa và cũng là nơi tồn tại đói nghèo. Khách du lịch ở các nước phát triển thường lựa chọn những lễ hội của các nước để tổ chức những chuyến du lịch nước ngoài. Bởi thế, thu hút khách du lịch tham gia du lịch văn hóa tức là tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống của người dân địa phương. Ở những nước kém phát triển hoặc đang phát triển, nền tảng phát triển phần lớn không dựa vào những đầu tư lớn để tạo ra những điểm du lịch đắt tiền, mà thường dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa dạng trong bản sắc dân tộc. Những nguồn lợi này không tạo ra giá trị lớn cho ngành du lịch, nhưng lại đóng góp đáng kể cho sự phát triển của cộng đồng xã hội. Những quốc gia phát triển mạnh du lịch văn hóa là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, và một số nước thuộc khu vực Nam Mỹ…. “Du lịch văn hóa là xu hướng của nhiều nước. Loại hình du lịch này rất phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, rất tốt cho hoạt động xóa đói giảm nghèo quốc gia, vì vậy phải được xem là hướng phát triển của ngành du lịch Việt Nam”, một quan chức của Vụ Hợp tác quốc tế thuộc Tổng Cục Du lịch phát biểu. Ở Việt Nam, nhiều hoạt động du lịch văn hóa được tổ chức dựa trên những đặc điểm của vùng miền. Chương trình Lễ hội Đất Phương Nam (Lễ hội văn hóa dân gian vùng Đồng bằng Nam bộ), Du lịch Điện Biên (Lễ hội văn hóa Tây Bắc kết hợp với sự kiện chính trị: 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ), Con đường Di sản miền Trung (Lễ hội dân gian kết hợp tham quan những di sản văn hóa được UNESCO công nhận)… là những hoạt động của du lịch văn hóa, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Trong số đó, Festival Huế được xem là hoạt động du lịch văn hóa đặc sắc nhất Việt Nam. Lễ hội được tổ chức thường xuyên 2 năm một lần, với sự hỗ trợ của Chính phủ Pháp. Festival Huế 2004 là lần thứ ba VN có dịp giới thiệu với du khách về lễ hội dân gian của miền Trung, đặc biệt là Nhã nhạc cung đình Huế – một di sản phi vật thể vừa được UNESCO cộng nhận; và Lễ tế đàn Nam Giao – một lễ hội vương triều thất truyền từ hàng chục năm nay. Ngoài ra, lễ hội dân gian này còn có sự tham gia của các nước Pháp, Trung Quốc…

3.1.1 Du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững. Du lịch sinh thái (EcoTourism) Du lịch sinh thái là loại hình du lịch có trách nhiệm tại các điểm đi lại của các khu vực thiên nhiên, bảo tồn được môi trường và cải thiện phúc lợi cho người dân địa phương. Loại h́nh du lịch này tuy ra đời khá muộn nhưng nó đă nhanh chóng trở thành một loại h́nh du lịch có triển vọng và đang phát triển với tốc độ khá nhanh, đặc biệt là trong các khu bảo tồn và vườn quốc gia. Với ý nghĩa đó, đề tài đă nghiên cứu tiềm năng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái trong khu bảo tồn thiên nhiên nhằm gắn kết du lịch với bảo tồn và phát triển kinh tế cộng đồng địa phương.
Du lịch sinh thái có nguồn gốc từ du lịch thiên nhiên và du lịch ngoài trời. Thực ra loại h́nh du lịch này đă có từ rất lâu nhưng ít được con người chú ý. Kể từ  khi loại hình du lịch máy bay ra đời, cùng với sự phát triển khá nhanh của ngành du lịch với mối quan tâm về vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường, nhất là sau hội nghị thượng đỉnh về môi trường tổ chức tại Stockholm (Thuỵ Điển) năm 1972 và tại Rio Dejanero (Brazil) năm 1992 th́ du lịch sinh thái mới thực sự phát triển và được xem như là một công cụ hữu hiệu để thoả măn sự khát khao của con người về với thiên nhiên, gắn kết bảo vệ tài nguyên môi trường với phát triển du lịch bền vững.
Du lịch sinh thái có những đóng góp rất lớn về mặt kinh tế – xă hội ở nhiều quốc gia. Chỉ tính riêng Kenya, năm 1994 du lịch sinh thái trở thành một ngành xuất khẩu lớn nhất nước đóng góp 35% thu nhập ngoại tệ và 11% tổng sản phẩm quốc gia. Ở Mỹ, các hệ thống vườn quốc gia, khu bảo tồn mỗi năm đón khoảng 270 triệu lượt khách đem về hàng chục tỷ đô la. Một số nước như Mêxicô, Úc, Malaixia, Eucoado, Kenya, Brazil, Ethiophia… du lịch sinh thái cũng đă đóng vai tṛ quan trọng trong việc thu đổi ngoại tệ.
Mặc dù chưa có con số thống kê cụ thể nhưng theo nghiên cứu sơ bộ của Fillion (1992), du lịch sinh thái đă đóng góp 223 tỷ đô la trong thu nhập của nhiều quốc gia.
Ngoài những lợi ích về mặt kinh tế, du lịch sinh thái đă mang lại nhiều lợi ích trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển kinh tế cộng đồng. Ở Coastarica, Vênêxuêla… một số chủ trang trại chăn nuôi đă bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng và biến những nơi này thành điểm du lịch sinh thái tự nhiên, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương. Ecuado sử dụng khoản thu nhập từ du lịch sinh thái tại đảo Galapago để duy tŕ mạng lưới vườn quốc gia…. nhờ du lịch sinh thái mà người dân trong vùng đệm ở các khu bảo tồn, vườn quốc gia phát triển các ngành nghề thủ công, tham gia hoạt động du lịch để đảm bảo thu nhập, hạn chế sự tác động vào rừng.
Ở Việt Nam, ngành du lịch phát triển tương đối muộn. Hoạt động du lịch chỉ thực sự diễn ra sôi nổi từ sau năm 1990 gắn liền với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước. Theo số liệu thống kê từ năm 1990 đến 2002 lượng khách quốc tế tăng10,5 lần (từ 250.000 đến 2.620.000) khách nội địa tăng 13 lần (từ 1000.000 tăng lên 13.000.000). Thu nhập xă hội cũng tăng đáng kể, năm 1991 là 2.240 tỷ đồng đến năm 2002 là 23.000 tỷ đồng, trong đó hoạt động du lịch sinh thái trong các khu bảo tồn và vườn quốc gia và du lịch biển đóng góp một tỷ trọng lớn. Các số liệu thống kê ở một số vườn quốc gia như Cúc Phương, Cát Bà, Côn Đảo, Bạch Mă … các khu bảo tồn thiên nhiên như Phong Nha- Kẻ bàng, Hồ kẻ gỗ… bình quân mỗi năm tăng 50% khách nội địa và 30 % khách quốc tế. Trong giai đoạn từ 1995 – 1998 du lịch sinh thái đạt tăng trưởng 16,5%.
Du lịch sinh thái ở Việt nam cũng đă có những đóng góp lớn cho sự phát triển cộng đồng, bảo vệ tài nguyên môi trường. Nhờ phát triển du lịch sinh thái mà đồng bào một số dân tộc, cư dân sinh sống trong vùng đệm các vườn quốc gia, khu bảo tồn có được việc làm, nâng cao mức sống, các lễ hội, tập tục, ngành nghề thủ công được bảo tồn và phát triển.
3.1 Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ
3.1.1 Du lịch quốc tế
Được hiểu là chuyến đi từ nước này sang nước khác. Ở loại hình du lịch này, khách du lịch phải đi qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch. Du lịch quốc tế chia làm hai loại:
Du lịch quốc tế chủ động (Inbound Tourism): Nước chủ nhà chủ động đón khách từ các nước tới tham quan và làm tăng thu nhập ngoại tệ.
Du lịch quốc tế bị động (Outbound Tourism): Là nước này gửi khách đi du lịch sang nước khác và phải mất một khoản ngoại tệ.
Sự phát triển loại hình du lịch này là cơ sở cho các mối quan hệ hợp tác cùng có lợi về các mặt kinh tế, văn hoá xã hội gữa các quốc gia. Tuỳ theo điều kiện củ thể của từng giai đoạn, mỗi nước phải tự xem xét nên phát triển du lịch quốc tế chủ động hay du lịch quốc tế bị động.
3.1.2 Du lịch nội địa
Chuyến đi của người du lịch từ chỗ vùng này sang chỗ khác nhưng trong phạm vi đất nước mình chi phí bằng tiền nước mình. Điểm xuất phát và điểm đến nằm trong lãnh thổ nước mình. Loại hình du lịch này phát triển ở các nước đang phát triển và kém phát triển. Nguyên chủ yếu là do điều kiện kinh tế của người dân.
3.2      Căn cứ theo vị trí địa lí
Một đặc điểm quan trọng của du lịch hiện đai và có ý nghĩa lớn đối với phân bố là tính chất giải trí đối lập nhau tức là người du lịch thường tìm tới môi trường đố lập với nơi họ thường sinh sống. Thí dụ, những người dân sống ở các thành phố thì thích các hình thức nghỉ ngơi, du lịch gắn với thiên nhiên, với vùng quê yên tĩnh; ngược lai, những người sống ở nông thôn thường bị hấp dẫn tại các thành phố lớn… Đặc điểm này là một nhân tố quan trọng quyết định các loại hình xét theo vị trí địa lí sau:
3.2.1 Du lịch nông thôn
Loại hình này mới phát triển trong những năm gần đây.   Khách du lịch chủ yếu là những người sống ở thành phố chủ yếu là tìm tới chốn yên tĩnh để nghỉ ngơi hoặc tìm về kí ức của tuổi thơ, thưởng thức hương vị của đồng quê với những món ẩm thực ngon lạ. Ở Việt Nam, nếu phát triển được loại hình du lịch này có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao mức sống của người dân.
3.1.1 Du lịch thành thị
Khách du lịch muốn tham quan những thành quả của sự phát triển kinh tế, xã hội với những toà nhà cao tầng, những nhà máy, công viên, các công trình kiến trúc đồ so và đi mua sắm. Đối tượng khách chủ yếu là những người sống ở nông thôn, những người sống ở thành phố cấp II, III, cá thị xã (đối với du lịch nội địa), khách du lịch ở các nước kém phát triển và đang phát triển (đối với du lịch quốc tế).
3.1.2 Du lịch biển
Một nhà thơ đã nói ví von rằng: “Thế giới ¾ nước mắt” (đại dương). Bên cạnh tạo điều kiện để phát triển thuy hải sản, giao thông đường thủy, biển còn có ý nghĩa rất lớn về du lịch. Hiện nay, du lịch biển đón một lượng khách lớn trên phạm vi thế giới. Du lịch biển với hai chức năng chính là chữa bệnh và thể thao… cho nên chúng ta có thể gọi đây là loai hình này là loại hình du lịch tổng hợp (du lịch nhỉ dưỡng và du lịch thể thao). Người ta cho rằng một bãi biển đep, thu hút khách du lịch phải hội tụ các yếu tố: Sun (ánh nắng) – Sea (biển) – Sand (cát) . Các bờ biển đẹp, nước trong xanh, cát trắng mịn, luôn chan hoà ánh nắng là điều kiện hấp dẫn khách du lịch. Nhìn chung các nước vùng nhiệt đới là các nước phát triển mạnh về du lịch biển.
3.1.1 Du lịch miền núi
Hiện nay du lịch biển đang thu hút lượng khách tham quan nhiều nhất nhưng trong tương lai thì du lịch nghỉ núi sẽ chiếm ưu thế. Du lịch nghỉ núi thường gắn với hoạt động thể thao, chữa bệnh, hoà mình vào thiên nhiên để thư giãn, lấy lại sự thăng bằng về tâm lí.
Các điểm nghỉ mát Tam Đảo, Sa Pa, Đà Lạt, Ba Vì… là những điểm nghỉ dưỡng núi đã xuất hiện khá lâu ở nước ta. Ngoài loại hình này, do tính độc đáo và tương phản cao, miền núi còn rất thích hợp cho việc xây dựng và phát triển các loại hình du lịch tham quan, cắm trại, mạo hiểm…
3.2 Căn cứ theo hình thức tổ chức
3.2.1 Du lịch cá nhân
Khách tự chọn cho mình một chương trình tham quan nghỉ ngơi trong số rất nhiều chương trình du lịch do nhà tổ chức kinh doanh ấn định hoăc tự vạch ra chuyến hành trình, kế hoạch lưu trú, địa điểm ăn uống tuỳ nghi. Loại hình này phát triển nhanh chóng và chiếm ưu thế trong những năm gần đây. Ưu điểm của du lịch đi lẻ là không bị lệ thuộc về thời gian, có thể kết hợp làm các việc khác, nói tóm lại là tự do. Nhươc điểm là khách hầu như là phải tự lo tất cả các việc, vào mùa du lịch cao điểm, thường khó khăn trong việc đặt phòng, thuê xe du lịch.
3.2.2 Du lịch theo đoàn
Loại hình này thường gắn với việc kinh doanh ỏ các công ty lữ hành. Khách được tổ chức đi tập thể theo một chương trình định sẵn, cùng phương tiện vẩn chuyển, cùng một HDV và thường trả theo giá trọn gói. Đối tượng khách chủ yếu là cá các nhân làm việc trong cùng một cơ quan, hoặc có mối quan hệ bạn bè. Du lịch theo đoàn phổ biến ở cá nước xã hội chủ nghĩa. Ưu điểm của du lịch theo đoàn là khách an tâm trong việc tham quan, mọi việc đá có HDV và công ty lữ hành lo. Nhược điểm là bị lệ thuộc vào thời gian chuyến đi, phụ thuộc vào chương trình của đoàn.
3.3 Căn cứ theo phương thức hợp đồng
3.3.1 Du lịch trọn gói
Khách du lịch thường kí hợp đồng trọn gói với các công ty lữ hành khi muốn tham gia vào một tuyết du lịch với một số tiền nhất định. Thường các các dịch vụ trọng gói mà công ty lữ hành liên kết với các đơn vị kinh doanh khác nhau cung cấp cho khách đó là:
-          Dịch vụ lưu trú
-          Dịch vụ vận chuyển
-          Dịch vụ ăn uống
-          Dịch vụ hướng dẫn
-          Dịch vụ bảo hiểm
-          Vé tham quan
Như vậy khách sẽ được công ty lữ hành lo cho hất các quy trình và nhiệm vụ chính là thưởng thức, cảm nhận các dịch vụ.
3.3.2 Du lịch từng phần
Du khách chọn một hay vài dịch vụ của các công ty du lịch, có thể là dịch vụ lưu trú, có thể là dịch vụ ăn uống, có thể là vận chuyển .v.v. Còn lại khách tự tổ chức và liên hệ các dịch vụ khác nhau hay tựi mình có.
3.4 Căn cứ theo phương tiện vận chuyển
3.4.1 Du lịch đường bộ
Du lịch xe đạp: Vừa kết hợp tham quan và thể thao, và tất nhiên tiết kiệm một số tiền về phương tiện đi lại để phục vụ vào mục đích khác. Bên cạnh đó du khách có thể xâm nhập dể dàng với cuộc sống dân bản xứ và đi tới những nơi đường sá chưa phát triển. Loại hình nay chủ yếu xuất hiện và được ưa chuộng ở châu Âu, đặc biệt ở các nước có địa hình bằng phẳng như Hà Lan, Đan Mạch. Đối với khách nước ngoài tại Việt Nam, còn đối với người Việt Nam thì rất hiếm, chỉ có một số cơ sở làm dịch vụ cho khách là người nước ngoài thuê xe đạp, xe gắn máy đi du lịch (phố Phạm Ngũ Lão – Tp.Hồ Chí Minh).
Du lịch xe ôtô: Loại hình du lịch này gắn liền với kĩ nghệ sản xuất xe hơi. Người ta dự tính rằng trung bình trên thế giới sản xuất 25 triệu xe hơi trong một năm. Ở những nước công nghiệp phát triển hầu như gia đình nào cũng có xe con. Ở Tây Ban Nha, Thuỷ Sĩ, Tây Đức du lịch ôtô chiếm trên 90%. Sử dụng ôtô có thể đi được nhiều nơi, thích hợp với nhiều dạng địa hình. Các gia đình thường dùng ôtô nghỉ ngơi cuối tuần. Đặc biệt sự phát triển du lịch nội địa gắn liền với loại hình du lịch ô tô du lịch ôtô.
Tuy nhiên, một số khách thường bị dị ứng khi đi du lịch bằng ôtô. Điều này thường dẫn tới tâm lý ngần ngại của du khách, ảnh hưởng đến quyết định chọn sản phẩm du lịch của họ.
3.4.2 Du lịch đường không
Là một trong những loại hình tiên tiến nhất, đáp ứng nhu cầu của khách, có thể tới tham quan, nghỉ dưỡng tại những nước, những vùng xa xôi nhất, tranh thủ sử dụng những ngày nghỉ cuối tuần trong thời gian di chuyển ngắn nhất. Trang thiết bị, tiên nghi và phục vụ chu đáo của ngành hàng không ở nhiều nước làm cho khách du lịch rất ưa chuộng. Nhược điểm là giá thành vận chuyển cao, không phù hợp với tầng lớp có nhu cầu thấp.
Các phương tiện chính trong loại hình du lịch bằng đường không mà chúng ta thường gặp là: máy bay dân dụng, máy bay lên thẳng, kinh khí cầu, cáp treo, các tàu vũ trụ.
3.4.3 Du lịch đường thủy
Từ xa xưa vua chúa đã đi du ngoạn bằng thuyền trên sông, ho, biển. Ngày nay, nhiều hãng tàu có các loại tàu với chất lượng tương đương khách sạn 5 sao với nhiều loại dịch vụ phong phú như thể thao, bơi, matxa.v.v… có thể đáp ứng nhu cầu cao của du khách. Đối tượng khách là những người có thu nhập cao. Loại hình du lịch này là trọn gói, đặc biệt thích hợp với những chuyên du lịch dài ngày, ghé thăm nhiều nơi, nhiều quốc gia.
3.5 Căn cứ vào mục đích chuyến đi
3.5.1 Theo mục đích chung
Du lịch tham quan: Tham quan là hành vi quan trọng của con người với mục đích chính là nâng cao hiểu biết cho cá nhân, loại hình du lịch này thoả mãn lòng ham hiểu biết và ham thích nâng cao văn hoá thông qua các chuyến đi du lịch đến những nơi lạ để tìm hiểu các di sản văn hoá, di tích lịch sử, các công trình kiến trúc nghệ thuật, các lễ hội độc đáo, các làng nghề thủ công truyền thống, các bản làng của ngưòi dân tộc thiểu số, phong tục tập quán và tìm hiểu những thành quả kinh tế, chế độ xã hội, chất lượng cuộc sống của mỗi địa phương mỗi quốc gia và có thể là một phong cảnh thiên nhiên kỳ thú…. Loại hình du lịch tham quan có tác dụng nhận thức là rất lớn, tác dụng giải trí không hiện hình hoặc có ý nghĩa thứ yếu. Thời gian lưu lại của khách đối với loại hình này trong thời gian rất ngắn, thường kéo dài một giờ, hoặc một vài phút. Đối tượng của loại hình du lịch này thường là những người có văn hoá cao như nhà giáo, nhà khoa học, nhà sử học, nhà báo…. Ưu thế của loại hình du lịch này là đại bộ phận không chịu ảnh hưởng của tính mùa vụ. Điều này nó giúp cho sự cân bằng trong việc phát triển du lịch.
Du lịch giải trí: Mục đích chuyến đi là thư giãn, xả hơi, bứt ra khỏi công việc thường nhật căng thẳng để phục hồi sức khỏe (vật chất cũng như tinh thần). Trong chuyến đi, nhu cầu giải trí là nhu cầu không thể thiếu được của du khách. Do vậy, ngoài thời gian tham quan, nghỉ ngơi, cần thiết có các chương trình vui chơi, giải trí trong chuyến đi cho du khách trong chuyến đi. Với sự phát triển của xã hội, mức sống gia tăng, số người đi du lịch chỉ nhằm mục đích giải trí, tiêu khiển bằng các trò chơi cũng gia tăng đáng kể. Để đáp ứng xu thế này cần quan tâm mở rộng các loại hình và các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ vui chơi giải trí như các khu du lịch, làng du lịch, công viên, khu vui chơi giải trí, sòng bạc… Ở Việt Nam, tuy các khu vui chơi giải trí còn chưa hiện đại do hoàn cảnh kinh tế chưa cho phép song cũng đã thu hút được khá đông khách trong và ngoài nước, nhất là trong các dịp lễ tết. Ví dụ rõ về mặt này là khu du lịch Đầm Sen, Suối Tiên ở Thành Phố Hồ Chí Minh. Muốn phát triển loại hình du lịch này cần quan tâm đến các dự án cùng với việc đầu tư, quy hoạch du lịch, đào tạo các bộ nhân viên.
Du lịch nghỉ dưỡng: Du khách tìm đến các bãi biển, vùng suối nước khoáng, nước nóng có giá trị y học cao để chữa bệnh. Bên cạnh đó do đời sống công nghiệp, sự làm việc căng thẳng nên tranh thủ những ngày nghỉ tìm đến với thiên nhiên, hoà mình vào thiên nhiên để thay đổi môi trường sống hàng ngày, tránh tình trạng stress. Vì vậy, không gian du lịch phải thoáng mát, yên tĩnh. Và điều quan trọng là phải có đội ngũ phục vụ chuyên nghiệp. Thời gian lưu lại của khách đối với loại hình du lịch này là rất lớn. Đối tượng khách chủ yếu của loại hình du lịch này công nhân lao động, người già. Ngày nay ở Việt Nam, các bộ ngành đang có xu hướng xây dựng các nhà nghỉ tại các bờ biển đẹp vừa kinh doanh, vừa tạo điều kiện cho cán bộ công nhân đi nghỉ vào dịp hè. Do chịu ảnh hưởng của điều kiên thời tiết, khí hậu nên hiệu suất sử dụng không cao hay nói cách khác loại hình này chịu ảnh hượng của tính mùa vụ.
3.5.2 Theo mục đích riêng
Du lịch thể thao: Nhu cầu, sở thích của khách gắn với các môn thể thao. Loại hình này có hai loại khách chính đó là vận động viên trực tiếp tham gia thi tài ở các kì Thế Vận hội, Worldcup hoặc đến các vùng có tiềm năng thể thao như leo núi, trượt tuyết, săn bắn, bơi lội… (chủ động) và các cổ động viên xem các cuộc thi đấu và cổ vũ (bị động). Loại hình du lịch thể thao là một trong những loại hình đem lại nguôn thu rất lớn cho địa phương vì nó thu hut một lượng lớn khách du lịch. Không phải ngẫu nhiên mà các quốc gia trên thế giới ngày càng ra sức chạy đua để được đăng cai một kì Thế vận hội, Worldcup bên cạnh việc thu lợi nhuận là quảng bá hình hình ảnh đất nước nhằm mục đích phát triển du lịch.
Chúng ta thấy rằng, đối với các tổ chức kinh doanh lữ hành của quốc gia hay địa phương đăng cai tổ chức thể thao hoàn toàn có thể chủ động đón những đối tượng tham gia vào cuộc thi (khách du lịch thể thao chủ động). Nhưng họ lại hoàn toàn không thể đoán trước mà chỉ dự báo được số du khách tới xem (khách du lịch thể thao bị động). Vì vậy trong phạm vi này có thể cho rằng các công ty lữ hành phải đóng vai trò bị động.
Trong điều kiện hiện nay, đối tượng du khách có xu hướng phát triển nhanh, vì thế đứng ở góc độ bị động đối với đối tượng du khách này, các nhà kinh doanh du lịch phải xây dựng tính dự báo đảm bảo tính thuyết phục, tránh cung cấp dịch vụ quá dư thừa hoặc quá thiếu theo nhu cầu của du khách tới xem hoạt động thể thao.
Hiệu quả du lịch từ khách du lịch bị động là không thể phủ nhận được, chính vì vậy một trong những mục đích chính của quốc gia dành giật đăng cai tổ chức các kỳ thể thao lớn không nằm ngoài mục đích như được nguồn tài chính lớn từ khách du lịch.
Du lịch tôn giáo: Loại hình này thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng đặc biệt của những người theo các tôn giáo khác nhau (hiện nay, trên thế giới có các tôn giáo lớn như đạo Hồi, đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, Nho giáo, Do Thái…). Đây là loại hình du lịch lâu đời rất phổ biến ở các nước tư bản. Vì tôn giáo là nhu cầu tinh thần và là tín ngưỡng trong những cá nhân theo tôn giáo của họ, do đó dộng cơ đi và đến những nơi cội nguồn của tôn giáo là mong muốn và là nguyện vọng hàng năm của họ. Ngoài ra còn có những đối tượng không thuộc thành phần tôn giáo, nhưng họ lại có xu hướng hiếu kỳ khi tham gia vào các hoạt động mang tính tôn giáo. Chính điều này mà mỗi năm tất cả các quốc gia trên thế giới hoạt động du lịch tôn giáo là rất lớn và không ngừng tăng trưởng về số lượng du khách trên phạm vi khả năng thanh toán. Các trung tâm nổi tiếng thế giới của loại hình du lịch này là Vaticãng, Gieluxalun. Mec-ca, v.v… Ở Việt Nam, vào mùa xuân, các tín đồ Phật giáo hành hương về Yêu Tử- nơi khởi nguồn của đạo Phật phái Trúc Lâm, Chùa Hương, thăm nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình).v.v…
Hoạt động hướng dẫn tham quan đối với loại hình du lịch này đòi hỏi phải có quá trình khảo sát, chọn lọc và được chuẩn bị theo một chương trình nhất định. Khi giới thiệu cần phải định hướng cho khách về thông tin biểu hiện tính tích cực, tránh thần thánh hoá, tránh đưa con người vào bi quan, bi lụy.
Du lịch thăm hỏi: Nảy sinh do nhu cầu giao tiếp xã hội nhằm gặp mặt, thăm hỏi, trò chuện, chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn cùng bà con, họ hàng, bạn bè thân quen… Hình thức du lịch này có ý nghĩa quan trọng đối với những nước có nhiều người sống ở nước ngoài như Việt Nam, Ý, Anh, Tây Ban Nha, Nam Tư. Đối tượng của loại hình du lịch này thường đi trong thời gian dài ngày và thường diễn ra vào thời điểm sự kiện quan trọng như dịp tết, quốc khánh, lễ hội….Khách du lịch gần như chỉ mua những dịch vụ không trọn gói của các công ty lữ hành. Và mỗi lần trở về thăm quê hương, khách du lịch thuộc loai hình này mang về một lượng ngoại tệ lớn, tạo điều kiện tích lũy ngoại tệ cho quốc gia.
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có đối tượng Việt kiều rất đông và hàng năm có tới vài trăm ngàn người về thăm quê hương, là một thị trường khách mà các nhà kinh doanh lữ hành quốc tế tại Việt Nam đang hướng tới. Ngoài ra, trong phạm vi du lịch thăm thân nội địa cũng rất phổ biến, âu cũng chính là do đặc điểm lịch sử để lại.
3.1.1 Theo trách nhiệm
Du lịch MICE: MICE là loại hình du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện, du lịch khen thưởng của các công ty cho nhân viên, đối tác. MICE – viết tắt của Meeting (hội họp), Incentive (khen thưởng), Convention (hội nghị, hội thảo) và Exhibition (triển lãm). Tên đầy đủ tiếng Anh là Meeting Incentive Conference Event. Bởi vậy các đoàn khách MICE thường rất đông (vài trăm khách) và đặc biệt mức chi tiêu cao hơn khách đi tour bình thường (do Ban tổ chức các hội nghị quốc tế bao giờ cũng đặt phòng cho khách ở khách sạn 4 – 5 sao, dịch vụ cao, tour sau hội nghị phải thiết kế chuyên biệt theo yêu cầu…). MICE hiện là loại hình du lịch mang lại nguồn thu rất lớn cho ngành du lịch ở các nước.
Đối với Việt Nam loại hình du lịch này đã được các công ty trong ngành du lịch khai thác từ nhiều năm nay, bước đầu đã có kết quả khả quan. Khai thác thị trường MICE là một trong những mục tiêu của chiến lược phát triển ngành du lịch Việt Nam.
Đánh giá về tiềm năng phát triển MICE, đoàn chuyên gia WTO cho rằng: VN có tiềm năng rất lớn và nếu phát triển MICE sẽ là đối thủ đáng ngại của Singapore (trung tâm thu hút MICE lớn nhất Đông Nam Á hiện nay). Cảnh quan thiên nhiên ưu đãi, nhiều di sản văn hóa, thiên nhiên thuộc hàng kỳ quan thế giới, bãi biển đẹp, hệ thống khách sạn, resort phát triển… Tuy nhiên theo WTO để MICE phát triển Việt Nam nên thành lập MICE Bureau (tổ chức xúc tiến phát triển MICE), xây dựng chiến lược marketing, cải thiện ngay hạ tầng phục vụ khách MICE: visa, sân bay, hệ thống khách sạn, trong đó, việc xác định vị trí xây dựng trung tâm hội chợ triển lãm quốc tế rất quan trọng: nó phải gần sân bay, khách sạn, thuận tiện đi lại, giao dịch. Các giải pháp khác phải hướng vào việc phân tích số liệu thông tin thị trường, thiết lập chiến lược thông tin quảng bá MICE và xây dựng website, phát triển thương mại điện tử, mở các lớp đào tạo nguồn nhân lực trong và ngoài nước.

1 nhận xét:

  1. collagen enhance giá bao nhiêuDa xuất hiện những vết nám, vết thâm và tàn nhang, ngày càng lan rộng và sẫm màu hơn. collagen shiseido dang nuoc co totTại sao các sản phẩm Collagen tự nhiên hoạt động ? Trong thực tế, cơ thể bạn sẽ hấp thụ các sản phẩm collagen tự nhiên dễ dàng tạo ra một tác dụng chống lão hóa. Trong khi nhiều người thường tìm cách giải phẫu để mang lại sức sống cho làn da của họ, phẫu thuật không phải lúc nào cũng cần thiết cho tất cả mọi người. Đôi khi, chỉ cần chọn mua cho mình một sản phẩm hoặc chọn một liệu pháp chăm sóc da thích hợp sẽ đem lại các kết quả bất ngờ. 25 tuổi có nên uống collagenTheo mình thấy, da bạn như vậy là sử dụng được cả Collagen và Vitamin C đấy, trong quá trình bị mụn da cũng bị tổn thương nhiều. uống nước collagen thì mới có hiệu quả Da không đều màu, dấu hiệu của nám, sạm và tàn nhang xuất hiện rõ đồng thời cải thiện màu sắc da tươi tắn và trẻ trung. fine pure collagenCollagen: đây là loại protein chính hình thành nên cấu trúc da, nó có tác dụng như một chất kết dính giữa các mô trong cơ thể. Collagen còn là thành phần chính của gân, dây chằng, sụn, xương và răng trong cơ thể. Bổ sung collagen sẽ giúp tái tạo độ đàn hồi cho da, chống lão hóa, chảy sệ đồng thời giúp các bộ phần khác trên cơ thể khỏe mạnh hơn. uống collagen vào lúc nào trong ngàyCollagen ở dạng sợi dài, chủ yếu được tìm thấy trong các mô xơ như dây chằn, gân và da và cũng có nhiều trong giác mạc sụn, xương, ruột và đĩa đệm. Chức năng chính của Collagen là kết nối các mô trong cơ thể lại với nhau, nếu không có nó, cơ thể người ta sẽ chỉ là các phần rời rạc. Cách phân biệt Neocell Collagen + CBông bỏ bên trong hộp thuốc hàng thật thì có chất lượng tốt, tơi và mềm mịn còn bông bên trongCollagen giả thì sơ và thô giống như bông y tế bình thường mình hay mua. maihada cosmeCollagen nhằm bổ sung trực tiếp chất này cho da từ bên ngoài các bạn cần có cách lựa chọn phù hợp nhất để có thể đem lại hiệu quả tối ưu. Collagen từ Nhật bản dạng viênMột số loại thực phẩm chứa hàm lượng lớn acid béo omega – 3 như: Cá hồi, cá ngừ, trứng, các loại đậu hay các loại hạt… Đều là những loại thực phẩm mà bạn nên tăng cường, bổ sung thường xuyên vào chế độ ăn nua fine pure collagenChondroitin (chiết xuất từ sụn vi cá mập) có tác dụng bôi trơn cơ khớp và giảm các bệnh lý về xương khớp, đồng thời hỗ trợ bảo vệ giác mặc chống khô mắt và mỏi mắt.

    Trả lờiXóa