I. Vai trò của tài nguyên đối với phát triển du lịch
1. Quyết định phương hướng phát
triển du lịch:
- Khuyến khích kinh doanh.
- Thu hút đầu tư kinh doanh.
- Thu hút du khách đến tham quan.
- Phối hợp hoạt động giữa các
ngành.
- Đào tạo nguồn nhân lực và tạo
việc làm cho ngưòi lao động.
2. Xây dựng sản phẩm du lịch:
- Các loại hình du lịch.
- Quy mô dịch vụ du lịch.
- Chất lượng dịch vụ du lịch.
- Đối tượng tiêu dùng sản phẩm.
3. Quyết định xây dựng cơ sở
vật chất kĩ thuật.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế.
- Xây dựng hạ tầng xã hội.
- Xây dựng cơ sở lưu trú.
- Xây dựng các loại hình vui chơi
giải trí.
2.1.1 Nhân
lực du lịch
Lao
động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của cải vật chất và
các giá trị tinh thần cho bản thân con người và cho xã hội. Lao động có năng
suất, chất lượng, hiểu quả cao là điều kiện quyết định cho sự phát triển đất
nước.
Nguồn
nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ được,
có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai (Beng, Fischer & Dornhusch,
1995). Nguồn nhân lực, theo GS. Phạm Minh Hạc (2001), là tổng thể các tiềm năng
lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc lao
động nào đó. Khi nói đến nguồn nhân lực, người ta bàn đến trình độ, cơ cấu, sự
đáp ứng với yêu cầu của thị trường lao động. Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh
trong trình độ kiến thức, kỹ năng và thái độ của người lao động.
Sự
phân loại nguồn nhân lực theo ngành nghề, lĩnh vực hoạt động (công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ) đang rất phổ biến ở nước ta hiện nay, nhưng khi chuyển sang
nền kinh tế tri thức phân loại lao động theo tiếp cận công việc nghề nghiệp của
người lao động sẽ phù hợp hơn. Lực lượng lao động được chia ra lao động thông
tin và lao đọng phi thông tin. Lao động thông tin lại được chia ra 2 loại: lao
động tri thức và lao động dữ liệu. Lao động dữ liệu (thư ký, kỹ thuật viên…)
làm việc chủ yếu với thông tin đã được mã hoá, trong khi đó lao động tri thức
phải đương đầu với việc sản sinh ra ý tưởng hay chuẩn bị cho việc mã hoá thông
tin. Lao động quản lý nằm giữa hai loại hình này. Lao động phi thông tin được
chia ‘ra lao động sản xuất hàng hoá và lao động cung cấp dịch vụ. Lao động phi
thông tin dễ dàng được mã hoá và thay thế bằng kỹ thuật, công nghệ. Như vậy, có
thể phân loại lực lượng lao động ra 5 loại: lao động tri thức, lao động quản
lý, lao động dữ liệu, lao động cung cấp dịch vụ và lao động sản xuất hàng hoá.
Mỗi loại lao động này có những đóng góp khác nhau vào việc tạo ra sản phẩm.
Nồng độ tri thức, trí tuệ cao hay thấp trong sản phẩm lao động phụ thuộc chủ
yếu vào đóng góp của lực lượng lao động trí thức, quản lý và phần nào của lao
động dữ liệu ở nước ta, tỷ lệ lao động phi thông tin còn rất cao trong cơ cấu
lực lượng lao động, do đó hàng hoá có tỷ lệ trí tuệ thấp. Muốn tăng khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế, cần tăng nhanh tỷ lệ trí tuệ trong hàng hoá
trong thời gian tới.
Theo
chủ nghĩa Mác – Lênin “nguồn gốc quan trọng nhất” quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động. Theo Các Mác: Lao động là một quá trình diễn biến
tự nhiên giữa người và tự nhiên, một quá trình trong đó bản thân con người đóng
góp vai trò môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa con
người với tự nhiên. Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con
người tồn tại. Lao động cung cấp cho con người những phương tiện cần thiết để
sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả bản thân con người. Thông qua lao động
cải tạo thế giới khách quan, tìm hiểu được quy luật vận động của thế giới khách
quan, hình thành dần dần những tri thức về tự nhiên và xã hội. Lao động gồm hai
loại: Lao động chân tay và lao động trí óc .
Vậy
chúng ta có thể hiểu: Lao
động du lịch là bao gồm những người trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra những sản
phẩm du lịch phục vụ nhu cầu của con người và nhu cầu phát triển xã hội.
Tư liệu lao động:
Trong
quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết
là công cụ lao động, kết hợp với nhau thành một lực lượng sản xuất. Trong các
yếu tố của lực lượng sản xuất, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại
là công nhân, là người lao động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình
lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu
lao động, trước hết là công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để sản
xuất ra của cải vật chất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, “là sức
mạnh tri thức của con người đã được vật thể hóa”, nó “nhân” sức mạnh của con
người trong quá trình lao động sản xuất. Chính sự cải tiến và hoàn thiện kgông
ngừng công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người,
là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử .
Đối tượng lao động:
Đối
tượng lao động là toàn bộ thế giới khách quan xung quanh mà con người cùng tư
liệu sản xuất tác động tạo nên của cải vật chất xã hội. Đối tượng lao động rất
đa dạng, là mục tiêu khám phá và cải tạo của con người. Một nhà kinh doanh đã
nói:“ Thế giới quanh ta thật là rộng lớn, cần phải nghiên cứu chúng” .
Trong
phạm vi ngành du lịch, ngoài yếu tố con người, chúng ta có thể hiểu đối tượng
lao động du lịch là hệ thống tài nguyên (tự nhiên và nhân văn) và cơ sở vật
chất kỹ thuật mang ý nghĩa kép, nó vừa là đối tượng lao động du lịch, vừa cùng
với hệ thống cơ sở hạ tầng tạo nên tư liệu lao động để khai thác đối tượng lao
động du lịch tài nguyên (tự nhiên và nhân văn).
Đặc điểm lao động trong ngành
du lịch.
v
Lao động trong du lịch bao gồm lao động sản xuất vật chất và lao động sản xuất
phi vật chất, trong đó lao động sản xuất phi vật chất chiếm tỷ trọng lớn .
v
Lao động trong du lịch có tính chuyên môn hóa cao .
v
Thời gian lao động không cao nhưng thường chịu áp lực tâm lý lớn.
v
Cường độ lao động không cao nhưng thường chịu áp lực tâm lý lớn.
Yêu cầu lao động trong du lịch:
v Yêu cầu đạo đức nghề nghiệp: Nghề du lịch là nghề hấp dẫn mọi
người, được hưởng thụ những lợi ích kinh tế đăc biệt. Tuy vậy, lao động du lịch
là lao động tương đối “nặng”, đặc biệt là nghề HDV. Trên đường hành trình,
người HDV phải đối mặt với nhiều căng thẳng, phải có trách nhiệm với cuộc sống
nhiều người hay nói một cách hình ảnh là nghề “làm dâu trăm họ”. Do tính chất
phức tạp của công việc và sự chịu đựng căng thẳng về tâm lý nên khả năng chán
việc rất cao. Điều này đòi hỏi lao động trong ngành du lịch phải có lòng yêu
nghề, sự trung thực và tính kiên nhẫn.
v Trình độ chuyên môn:
Có nghiệp vụ, có kiến thức chuyên môn thành thạo và các kiến thức về văn hóa xã
hội, kinh tế. Phải có kiến thức về giao tiếp ứng xử quốc tế, nắm vững tâm lí
khách du lịch các nước để có cách phục vụ thích hợp. Đối với HDV thì trình độ
chuyên môn chính là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công trong công việc.
Có như vậy mới tạo được bản lĩnh nghề nghiệp khi đứng trước khách du lịch, sẵn
sàng trả lời mọi câu hỏi của khách đưa ra cung như mọi tình huống có thể xảy ra
trong cuộc hành trình.
v Trình độ ngoại ngữ: Là một
trong những kiến thức cơ bản của lao động du lịch. Nếu thiếu ngoại ngữ thì
không thể giao tiếp được với khách du lịch ngoài nước và khó lòng mà hiểu biết
được nhu cầu, sở thích của họ. Và khách rất vui mừng khi chúng ta nói chuyện,
giao tiếp với họ bằng ngôn ngữ của chính nước họ, họ có cảm giác một không khí
thân thiện như ở chính ngôi nhà của mình. Nước ta đang trong trong quá trình
hội nhập, là một trong những nước có tài nguyên phong phú để phát triển du lịch
và là điểm đến an toàn đối với khách du lịch. Viêc đẩy mạnh phát triển du lịch
quốc tế vừa quảng bá hình ảnh đất nước, vừa đem lại nhiều lợi ích kinh tế nên
yêu cầu đặt ra là phải đào tạo, hoàn thiện chuyên môn của đội ngũ lao động du
lịch, trong đó phải kể tới vấn đề ngoại ngữ. Có như vậy chúng ta mới có thể chủ
động đón và phục vụ khách.
Tóm lại, lao động du lịch phải
có 3 nhiệm vụ cơ bản sau:
v
Thỏa mãn tối đa nhu cầu chính
đáng du
khách.
v
Mang lại hiểu quả kinh tế một cách tối ưu.
v
Góp phần bảo vệ được môi trường tự nhiên cũng như xã hội, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc.
LAO ĐỘNG DU LỊCH CẦN TÂM NIỆM 7
ĐIỀU SAU:
1. Xác
định khách hàng là người quan trọng nhất của của bất cứ ngành kinh doanh nào.
2. Khách
không lệ thuộc vào chúng ta mà chúng ta lệ thuộc vào khách.
3. Khách
không phải là ngưòi đến gây phiền hà cho chúng ta mà là đối tượng để ta phục vụ.
4. Khách
là một bộ phận quan trọng của công việc kinh doanh.
5. Khách
là người đến với chúng ta với những ước muốn và nhu cầu, ta phải đáp ứng những
ước muốn và nhu cầu đó của khách.
6. Không
nên nghĩ khách là người nhiều tiền mà phải quan niệm khách là người có đức tính
và tình cảm như chúng ta.
7. Khách
là người nuôi sống và trả lương cho chung ta.
II. Điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch
Các
ngành từ kinh tế đến khoa học, xã hội muốn phát triển đều chịu ảnh hưởng các
điều kiện, hoàn cảnh đem lại cho ngành đó, tức là phải có lực đẩy, có tiềm
năng. Ngành du lịch cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tuy nhiên, là một hoạt
động đặc trưng, du lịch chỉ có thể phát triển được trong những điều kiện mà nó
cho phép. Trong những điều kiện này có những điều kiện mang đặc tính
chung thuộc về các mặt của đời sống xã hội, bên cạnh đó do đặc điểm vị trí
địa lý từng vùng mà nó tạo nên tiềm năng du lịch khác nhau. Đó chính là nét đa
dạng tạo nên những chương trình du lịch độc đáo của từng vùng, miền và
cái đích cuối cùng là thu hút khách du lịch, tăng sự hiểu biết, tạo mối giao
lưu văn hóa giữa các vùng, miền .
Tuy có sự phân chia thành các nhóm tài nguyên song các
điều kiện đều giữ một vai trò, ý nghĩa nhất định và tác động qua lại đến nhau
tác động qua lại đến nhau trong sự phát triển du lịch.
2.1 Điều kiện chung
2.1.1 An
ninh chính trị, an toàn xã hội
Để du lịch không ngừng phát triển trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của đất nước, sự phối hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh với các
hoạt động du lịch cũng như các ngành kinh tế khác có ý nghĩa cực kì quan trọng.
Sự bảo đảm vững chắc về quốc phòng, an ninh tạo môi trường ổn định cho đất nước
và khách tới tham quan.
Du lịch, bên cạnh việc nghỉ ngơi là “thẩm nhận những giá
trị vật chất, tinh thần độc đáo, khác lạ với quê hương mình” Điều này đòi hỏi
sự giao lưu, đi lại của du khách giữa các quốc gia, các vùng với nhau. Bầu
chính trị hòa bình, hữu nghị sẽ kích thích sự phát triển của du lịch quốc tế.
Một thế giới bất ổn về chính trị, xung đột về sắc tộc, tôn giáo làm ảnh hưởng
tới việc phát triển du lịch tức là nó không làm tròn “sứ mệnh” đối với du lịch,
gây nên nỗi hoài nghi, tâm lý sợ hãi cho du khách. Bên cạnh đó, những cuộc nội
chiến, những cuộc chiến tranh xâm lược với nhiều loại trang thiết bị lợi hại
làm hủy hoại tài nguyên du lịch, các công trình nghệ thuật kiến trúc do loài
người sáng tạo nên. Ở Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
nhiều công trình phục vụ phát triển du lịch bị phá hoại, nếu tồn tại thì chỉ
còn một phần và chúng ta đang ra sức kiến tạo lại tức là chúng ta quá lạm dụng
“bê tông hoá”, “nhựa hoá”, dù biết rằng nó đã mất đi phàn nào đó giá trị nguyên
bản. Năm 2000, tại hòn đảo Bali (Inđônêxia) – nơi hấp dẫn khách du lịch của
nhiều nước trên thế giới bị đánh bom khủng bố để lại nổi kinh hoàng cho khách
du lịch. Năm 2003 bệnh SAT ở Trung Quốc, dịch Cúm gà ở Việt Nam gây nên
những tổn thất lớn cho du lịch Trung Quốc và Việt Nam và gián tiếp ảnh hưởng
đến du lịch thế giới.
Thiên tai cũng có tác động xấu đến sự phát triển du lịch.
Nhật Bản là đất nước giàu và đẹp nhưng luôn phải hứng chịu những trận động đất,
gây khó khă cho phát triển du lịch, có chăng chỉ phát triển du lich bị động.
Vào những ngày cuới năm 2004, một trận sóng thần lớn nhất từ trước tới nay xảy
ra ở Đông Nam Á, Nam Á đã gây thiệt hại lớn về người và của, ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển du lịch. Điều đáng nói là sóng thần đã làm cho nhiều du khách
bị thiệt mạng, cơ sở vật chất phục vụ phát triển du lịch bi huỷ hoại nặng nề.
Bên cạnh đó là sự phát sinh và lây lan các loại dịch bệnh như tả lỵ, dịch hạch
sốt rét.
Từ những ví dụ trên cho chúng ta thấy được tầm quan trọng
của an ninh chính trị, an toàn xã hội cho khách du lịch, và là nhân tố quan
trọng tạo nên sự thành bại của ngành du lịch .
2.1.2 Kinh
tế
Một trong mhững yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến sự
phát sinh và phát triển du lịch là điều kiện kinh tế chung. Nền kinh tế chung
phát triển là tiền đê cho sự ra đời và phát triển của ngành kinh tế du lịch.
Theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế thuộc Hội đồng Kinh tế và Xã hội của
Liên Hợp Quốc, một đất nước có thể phát triển du lịch một cách vững chắc nếu
nước đó tự sản xuất được phần lớn số của cải vật chất cần thiết cho du lịch.
Sự phát triển của nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm có
ý nghĩa quan trọng với phát triển du lịch. Đây là cơ sở cung ứng nhiều hàng hoá
nhất cho du lịch. Ngành công nghiệp dệt cung cấp cho các xí nghiệp du lịch các
loại vải để trang bị phòng khách, các loại khăn trải bàn, ga giường…. Ngành
công nghiệp chế biến gỗ trang bị đồ gỗ cho các văn phòng, cơ sở lưu trú.
Khi nói đến nền kinh tế của đất nước, không thể không nói
đến giao thông vận tải. Từ xa xưa, giao thông vận tải đã trở thành một trong
những nhân tố chính cho sự phát triển của du lịch, đặc biệt là du lịch quốc tế.
Giao thông vận tải ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch trên hai phương diện: Số
lượng và chất lượng. Sự phát triển về số lượng làm cho mạng lưới giao thông
thông vươn tới mọi miền trái đất. Chất lượng của phương tiện giao thông ảnh
hưởng tới chuyến du lịch ở các mặt sau: tốc độ, an toàn, tiện nghi, giá
cả.
Chúng ta có thể khẳng định ngày nay với sự tiến bộ của
khoa học – kỹ thuật nhiều thành tựu được áp dụng vào sản xuất. Điều đó
đồng nghĩa vói điều kiện kinh tế của con người được nâng cao rõ rệt và vấn đề
ăn, mặc, trở thành thứ yếu. Nhu cầu được nghỉ ngơi, giải trí và giao lưu tình
cảm xuất hiện. Hiện nay, trong các nước kinh tế phát triển, du lịch trở thành
nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống của họ.Các nhà nghiên cứu kinh tế Du
lịch đã đưa ra nhận định là ở các nước kinh tế phát triển nếu nhu cầu quốc dân
trên mỗi người tăng lên 1% thì chi phí du lịch tăng lên 1,5%. Xu hướng ngày nay
là hầu hết các du khách ở các nước phát triển đều thích tham quan ở các nước
đang phát triển .Điều này rất dễ hiểu vì chi phí ở các nước đang phát triển
thấp, phù hợp với điều kiện kinh tế của người dân hạng trung lưu và nghèo ở các
nước phát triển.
Kinh tế và phát triển luôn có mối quan hệ hữu cơ, nghịch
thuận lẫn nhau. Trong quá trình phát triển của mình, du lịch luôn xem kinh tế
là một trong những nguồn lực quan trọng. Sự tác động của điều kiện kinh tế tới
phát triển du lịch thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau. Tìm hiểu rõ vấn đề này là
cách giúp những nhà quản lí và làm du lịch có những chính sách phát triển của
ngành phù hợp.
Như chúng ta đã biết, du lịch là ngành dịch vụ, nhận
nhiệm vụ “chuyển tải” sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của các ngành kinh tế khác để
cung cấp cho du khách nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Vì vậy điều kiện kiện kinh tế
đóng vai trò góp phần cung cấp các hàng hóa, dịch vụ cho du lịch. Khi khách tới Vũng Tàu không có nghĩa
là chỉ tới để nghỉ dưỡng và tắm biển, bên cạnh hoạt động đó du khach còn có cơ
hội và mong muốn thưởng thức hải sản. Vậy ngành kinh tế biển (đánh bắt cá) đóng
vai trò cung cấp nguồn lợi thủy sản cho các nhà hàng tại Vũng Tàu phuc vụ nhu
cầu ăn uống và mua về là quà của du khách. Ngành kinh doanh khách sạn cũng thế,
nếu như không có ngành xây dựng, ngành sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, ngành sản
xuất đồ dùng thì hoạt động kinh doanh của nó liệu có tồn tại không? Từ những ví
dụ trên chúng ta khẳng định điều kiện kinh tế là một trong những nhân tố tiên
quyết quyết định sự thành bại tong kinh doanh khách sạn.
Ngành du lịch chỉ phát triển khi có khách du lịch. Nhân
tố hình thành nên khách du lịch bao gồm thời gian rỗi, đông cơ – nhu cầu đi du
lich, khả năng tài chính. Chúng ta thấy rằng khả năng tài chính của cá nhân mỗi
du khách đóng vai trò rất quan trong trong việc thúc đẩy bước chân của du khach
tham gia cuộc hành trình. Nếu như sau thế chiến II, mục tiêu của con người là
kiến thiết lại nền kinh tế đã bị kiệt quệ với nhu cầu chính là cơm ăn, áo mặc,
nhà ở. Do đời sống còn thiếu thốn nên nhu cầu du lịch xuất hiện. Trong những
năm gần đây, có sư bùng nổ về du lịch thế giới, người ta ước tính rằng ó khoảng
3 tỷ lượt du lich nội địa và 750 triêu lượt khách du lịch quốc tề. Điều này co
nghĩa là khi nền kinh tế phát triển, đời sống con người được nâng cao, các nhu
cầu hàng ngày được đáp ứng thì con người xuất hiện những nhu cầu cao hơn trong
đó có nhu cầu du lịch. Như vậu điều kiện kinh tế phát triển là cơ sở để ngành
du lịch khai thác kinh doanh các nguồn khách khác nhau.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, giữa kinh tế và du lịch
luôn có mối quan hệ nghịch thuận tức là hoăc là kìm hãm, hoăc là thúc đẩy nhau
phát triển. Cuộc khủng hoảng kinh tế xuất phát từ Mỹ lan sang hầu hết các quốc
gia trên thế giới đã kiến cho nhiều ngành kinh tế rơi vào hoàn cảnh “đêm tối
không có đường ra”, trong đó có ngành du lịch. Cuôc khủng hoảng kinh tê khiến
không ít doanh nghiệp du lịch phá sản, nhiều điểm du lịch, khu du lịch, các cơ
sở lưu trú vắng khách. Nguồn thu từ du lịch thấp. Hậu quả là lương người lao
động thấp, chán nản, bỏ việc, mức sống của con người giảm. Vì thế nhu cầu du
lịch của con người chạy về theo hướng số không.
Ngày nay, xu thế thế giới là toàn cầu hóa. Từng dòng tư
bản và trí thức có sự luân chuyển giữa các quốc gia với nhau. Trước xu thế đó,
các công ty lớn thường có kế hoạch khai phá thị trường của mình. Hoạt động kinh
tế, trao đổi thương mại giữa các quốc gia phát triển mạnh. Qua sư giao lưu, tìm
hiểu kinh tế với các đối tác nước ngoài cũng như qua các hôi nghị kinh tế lớn,
ngành du lich co cơ hội quảng bá điểm mạnh của mình ra thế giới. Bên cạnh đó,
các hoạt động văn hóa thể thao lớn ngày càng có yếu tố “thương mai hóa” và kéo
đó là truyền hình vào cuộc. Tất nhiên sự vào cuộc của truyền hình là đòn bẩy
kính thích ngành du lịch của nhiều quốc gia hồi sinh. Điều đó để chúng ta tự
hỏi tại sao các nước luông muốn tranh chấp để đươc đăng cai các sự kiện lớn như
Worldcup, Olimlpic, hoa hậu….
Đất nước Việt Nam ngày càng hội nhập. Bằng chứng là chúng
ta được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (LHQ)
nhiệm kỳ 2008-2009 và chính thức đảm nhiệm chức Chủ tịch luân phiên HĐBA LHQ
nhiệm kỳ 01/07/2008 đến 31/07/2008, được gia nhập tổ chức Thương mại thế giới
WTO (11/1/2007) đã tạo
chỉ số uy tín rất cao của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhờ có chỉ số uy tín
cao nên chúng ta rất thuận lợi trong phát triển kinh tế và có khả năng “hút” các sự
kiện thể thao lớn trong khu vực, châu lục cũng như trên thế giới. Và nếu như
các sự kiện thể thao lớn được tổ chức thì cơ hội phát triển du lịch đạt hiểu
quả cao. Thông qua du lịch, chúng ta có cơ hội quảng bá hình ảnh đất nước trên
mọi lĩnh vực và lấy đó làm “thế” để thu hút các sự kiện thể thao khác.
Trong nước, đời sống của người dân ngày càng cao, cố
lượng khách du lịch nội địa cua Việt Nam gần đạt ngưỡng 20 triệu, ngày lễ, ngày
tết nhu cầu đi du lịch rất cao, có lúc quá tải. Điều đó khiến chúng ta có thể
khẳng định là do đời sống kinh tế của người dân ngày càng cao, mức lương và
thưởng hấp dẫn.
Trên bình diện cả nước, nền kinh tế ngày càng phát triển
“thay da đổi thịt”, nhiều công trình cao cấp, nhiều khách sạn, resort liên kết
với nước ngoài được đầu tư xây dựng. Đó là cơ sở để chúng ta có cơ sở và đảm
bảo khả năng khai thác và đón tiếp nguồn khách quốc tế tới tham quan.
Điều kiện kinh tế có vai trò hết sức quan trọng đối với
phát triển du lịch. Điều này cũng đòi hỏi ngành du lịch trong qua trình phát
triển của mình phải quảng bá, góp phần xây dựng kinh tế. Có như vậy mối quan hệ
tác động qua lại lẫn nhau mới bền vững.
2.1.3 Văn
hóa
Trình độ văn hoá cao tạo điều kiên cho việc phát triển du
lịch. Phần lớn những người tham gia vào cuộc hành trình du lịch là những người
có trình độ văn hoá nhất định, nhất là những người đi du lịch nước ngoài. Bởi
vì họ có sở thích(nhu cầu) đối với việc tìm hiểu các danh lam thắng cảnh, di
tích lịch sử, bản sắc văn hoá dân tộc hay nói đúng hơn tài nguyên, điểm du lịch
tác động đến họ theo một quá trình: Thông tin à Tiếp xúc à Nhận thức à Đánh
giá. Phải có trình độ văn hoá thì mới hiểu hết giá trị của chuyến tham quan du
lịch .Trong các nước mà nhân dân có trình độ văn hoá cao thì số người đi
du lịch ra ngoài tăng lên không ngừng với cường độ cao. Bên cạnh độ, trình độ
của người dân nước sở tại, nơi đón khách cũng phải chú ý. Trình độ văn hóa thấp
ảnh hưởng đến phát triển du lịch: Ăn xin, cướp giật, ép khách mua hàng….
Việc phát triển du lịch phải mang dấu ấn của con người,
tức là con người thông qua trí tuệ của mình đưa ra những biện pháp, cách thức
để phát triển du lich. Một quốc gia giàu có về tài nguyên du lịch nhưng nếu
không biết sử dụng trí óc của con người để phát huy hết giá trị của tài nguyên
đó thì coi như “muối bỏ bể”. Ngược lai có những quốc gia nghèo về tài nguyên du
lịch nhưng biết phát huy hợp lí sẽ thu hút được lượng khách du lịch rất lớn và
ngành du lịch sẽ phát triển bền vững.
2.1.4 Đường
lối phat triển du lịch
Chính sách phát triển du lịch là chìa khóa dẫn đến thành
công trong việc phát triển du lịch .Nó có thể kìm hãm nếu đường lối sai với
thực tế. Chính sách phát triển du lịch được ở hai mặt: Thứ nhất là chính sách
chung của Tổ chức du lịch thế giới đối với các nước thành viên; thứ hai là
chính sách của cơ quan quyền lực tại địa phương, quốc gia đó. Mặt thứ hai
có ý nghĩa quan trọng hơn cả vì nó huy động được sức người, căn cứ vào khả năng
thực tế tại mỗi vùng, quốc gia đó để đưa ra chính sách phù hợp.
Những biện pháp để thúc đẩy du lịch Việt Nam được Đảng và
Nhà nước đề ra ở Đại Hội VIII:
“Triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam
tương xứng với tiềm năng du lịch của đất nước theo hướng du lịch văn hoá, du
lịch môi trường sinh thái .Xây dựng các chương trình và điểm hấp dẫn về văn
hoá, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Huy động nguồn nhân lực của nhân
dân tham gia kinh doanh du lịch, ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng ở những
khu du lịch, tập trung ở những trung tâm lớn. Nâng cao trình độ văn hoá
và chất lượng dịch vụ với các loại khách khác nhau .Đẩy mạnh việc huy động vốn
trong nước đầu tư vào khách sạn, chuyển các nhà nghỉ, nhà khách từ cơ chế bao
cấp sang kinh doanh khách sạn và du lịch.”
Nhận thức được ảnh hưởng tiêu cực của thủ tục visa trên
lượng du khách, chính phủ Việt Nam đã sóm có sáng kiến về visa như từ
tháng 1/2004 bãi bỏ thị nhập cảnh cho du khách Nhật đến Việt Nam từ 15 ngày trở
xuống.Tháng 7/2004, sáng kiến này cũng được áp
dụng với du khách Hàn Quốc. Các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia,
Inđonesa, Philippines, Singapore và Lào cũng có các thỏa hiệp visa với
Viêt Nam.
Đa dạng hoá các sản phẩm du lịch Việt Nam là chính sách
dài hạn của Tổng cuc Du lịch Viêt Nam. Từ năm 1995, chính phủ đã chuẩn bị kế
hoạch lớn thời kì 1995 – 2010 nhằm phát triển du lịch, biến du lịch thành cánh
tay đắc lực mang lại ngoại tệ và công ăn việc làm cho người dân đồng thời
giới thiệu phong cảnh, văn hoá và con người Việt Nam với du khách nước ngoài.
Năm 2000 kế hoạch được bổ sung và chỉnh sửa. Theo kế hoạch, kỹ nghệ du lịch
Việt Nam sẽ thu hút đầu tư phát triển các cơ sở hạ tầng và phục vụ du khách đi
kèm với việc phát triển các sản phẩm du lịch độc đáo mang bản sắc Việt Nam.
Thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã có
những văn bản chỉ đạo hoạt động du lịch khoa học, thực tiễn và có hiệu quả từ
Đại hội VIII đến nay. Pháp lệnh du lịch Việt Nam ban hành ngày 20/2/1999 đã đi
vào cuộc sống và tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch việt Nam ngày một đi lên.
2.2 Điều kiện riêng
2.2.1 Tài
nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
việc phát triển du lịch. Tài nguyên nghĩa là tất cả những giá trị vật chất và
tinh thần được khai thác và ohục vụ cho mục đích phát triển nào đó của con
người. Theo Buchvakop – Nhà địa lý học người Bungari “Tài nguyên du lịch bao
gồm các thành phần và những kết hợp khác nhau của cảnh quan thiên nhiên cùng
cảnh quan nhân văn có thể được sử dụng cho dịch vụ du lịch và thỏa mãn nhu cầu
nghỉ ngơi hay tham quan của khách du lịch”. Xét dưới góc độ cơ cấu tài nguyên
du lịch, có thể phân thành hai bộ phận hợp thành: Tài nguyên du lịch tự nhiên
và tài nguyên du lịch nhân văn .
Di sản thế giới:
Đây được coi là tiềm năng lớn nhất và quan trong nhất, để
phát triển du lịch. Di sản văn hoá được hiểu là toàn bộ các tạo phẩm chứa
đựng những giá trị tích cục mà loài người đã đạt được trong xã hội thực tiễn do
thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau. Di sản văn hoá được chia ra làm hai
loại:
Di sản văn hoá vật thể:
- Là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử,
văn hoá, khoa học.
- Toàn bộ các sản phẩm vật chất hiện hữu dược hình
thành do bàng tay sáng tạo của con người, bao gồm: Hệ thống di tích lịch sử văn
hoá, thể thống danh lam thắng cảnh, thể thống di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Di sản văn hoá phi vật thể: là sản phẩm tinh
thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu dữ bằng trí nhớ, chữ viết
truyền miệng, truyền nghề, trình diễn, lễ hội truyền thống, ý thức về y dược
học, trang phục truyền thống….
Trên thế giới, khá nhiều quốc gia có số di sản tương đối
lớn được thế giới công nhận như Pháp (18 di sản), ẤnĐộ (18), Trung Quốc (14),
Tây Ban Nha (16), Anh (14), Canada (10), Nhật Bản (5).v.v… Tính đến nay, Việt
Nam có 6 di sản thế giới (trong đó di sản văn hoá chiếm 4, đó là: Kinh Thành
Huế, Nhã nhạc cung đình Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn). Nếu nhìn từ gốc
độ kinh tế (nói chung) và du lịch (nói riêng) thì di sản văn hóa là một tiềm
năng mang lại nguồn thu lớn cho đất nước.
2.1.1.1 Tài nguyên du lịch tự
nhiên
Địa hình: Địa hình hiện tại của
bề mặt trái đất là sảnphẩm của các quá trình địa chất lâu dài (nội sinh, ngoại
sinh ). Trong chừng mực nhất định, mọi hoạt động sống của con người trên
lãnhthổ đều phụ thuộc vào địa hình. Đối với hoạt động du lịch, địa hình
của một vùng đóng một vai trò quan trọng với việc thu hút khách. Địa hình Đồng
bằng tương đối đơn điệu về ngoại cảnh nhưng là nơi tập trung tài nguyên du lịch
nhân văn, đặc biệt là các di tích lịch sử văn hoá và là nơi hội tụ các nền văn
minh của loài người. Địa hình đồi thường tạo ra không gian thoáng đãng, nơi tập
trung dân cư tương đối đông đúc, lại là nơi có những di tích khảo cổ và tài
nguyên văn hóa, lịch sử độc đáo, tạo khả năng phát triển loại hình du lịch tham
quan theo chuyên đề. Địa hình núi có ý nghĩa lớn nhất đối với phát triển du
lịch, đặc biệt là khu vực thuận lợi cho tổ chức du lịch mùa đông, và các
loại hình du lịch thể thao như leo núi, du lịch sinh thái .v.v…. Địa hình
Karst được tạo thành do sự lưu thông của nước trong các đá dễ hòa tan. Ở Việt
Nam, động Phong Nha (Bố Trạch – Quảng Bình) được coi là hang nước đẹp nhất thế
giới. Bên cạnh đó chúng ta còn phải kể tới như động Tiên Cung , Đầu Gỗ (Hạ
Long), Tam Cốc – Bích Động (Ninh Bình), Hương Tích (Hà Tây) .v.v… đang rất thu
hút khách du lịch. Địa hình bờ bãi biển là nơi tiếp xúc giữa đất liền và biển
(kho nước lớn của nhân loại). Do quá trình bồi tụ sông ngòi, các đợt biểu tiến
và lùi, thủy triều .v.v… đã tạo ra nhiều bãi tắm đẹp, thích hợp với loại hình
du lịch nghỉ dưỡng biển .
Khí hậu: Là một trong những
yếu tố quan trọng trong việc phát triển du lịch, nó tác động tới du lịch ở hai
phương diện :
- Ảnh hưởng đến việc thực hiện các chuyến du lịch
hoặc hoạt động dịch vụ về du lịch .
- Một trong những nhân tó chính tạo nên tính mùa vụ
du lịch .
+ Du lịch cả năm: Du lịch văn hóa, du lịch chữa bệnh .
+ Du lịch mùa đông: Du lịch thể thao .
+ Du lịch mùa hè: Du lịch biển, nói chung là phong phú.
Khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa . Do
nằm hoàn toàn trong vùng nội chí tuyến (2 lần mặt trờiđi qua thiên đỉnh) nên
lãnh thổ nhận được một lượng bức xạ mặt trời rất lớn . Nhiệt độ trung bình hàng
năm từ 220C – 270C, tổng lượng nhiệt hoạt động lên tới 8.0000C, tổng số giờ nắng 1.400 giờ. Điều đó cho thấy các
bãi biển luôn chan hòa ánh nắng và thu hút một lượng khách trong nước và quốc
tế đến đến nghỉ dưỡng, chủ yếu là vào mùa hè. Tuy nhiên, khí hậu Việt Nam
cũng có sự phân hóa phúc tạp về mặt không gian và thời gian tạo nên tính mùa vụ
du lịch và tạo nên những loại hình du lịch thích hợp, phụ thuộc vào thời gian.
Tài nguyên nước: bao gồm nước chảy
trên bề mặt và nước ngầm. Đối với du lịch thì nguồn nước mặt có ý nghĩa rất
lớn. Nó bao gồm đại dương, biển, hồ, sông, hồ chứa nước nhân tạo, suối, Karst,
thác nước, suối phun…. Nhằm mục đích phục vụ du lịch, nước sử dụng tùy theo nhu
cầ, sự thích ứng của cá nhân, độ tuổi và quốc gia. Ở Việt Nam hiện có hơn
2.000km đường bờ biển, do quá trình chia cắt kiến tạo, do ảnh hưởng của chế độ
thủy triều và sóng mà dọc đất nước đã hình thành nhiều bãi tắm đẹp như Sầm Sơn
( Thanh Hóa) , Cửa Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên – Huế), Nha Trang (Khánh
Hòa) .v.v. . . thích hợp đối với du lịch nghỉ dưỡng và loại hình du lịch thể
thao như lướt sóng, khám phá đại dương ở Nha Trang (Khánh Hòa). Bên cạnh đó,
nước ta còn có mạng lưới sông ngòi dày đặc, phân bố đồng đều trên lãnh thổ. Dọc
bờ biển khoảng 20km gặp một của sông, có khoảng 2.360 con sông có chiều dài
trên 10 km trở
lên. Điều này thuận lợi cho việc phát triển du lịch đi thuyền thưởng ngoạn cảnh
vật ở hai bên bờ sông kết hợp với thưởng thức ẩm thực và liên hoan văn nghệ.
Chúng ta có thể kể tới như đi thuyền trên sông Hồng, sông Hương, sông Cữu
Long.v.v… Bờ biển rộng kết hợp với mạng lưới sông ngòi dày đặc là nguồn cung
cấp những sinh vật có giá trị phục vụ văn hóa ẩm thực và xuất khẩu du lịch tại
chổ .
Trong tài nguyên nước, cần phải nói đến tài nguyên nước
khoáng. Đây là nguồn tài nguyên có giá trị du lịch an dưỡng và chữa bệnh trên
thế giới, những nước giàu nguồn nước khoáng nổi tiếng cũng là những nước phát
triển du lịch chữa bệnh như Liên Xô ( cũ), Bungary, Ý, CHLB Đức, CH Séc
v.v Ở Việt Nam tiêu biểu có nguồn nước khoáng Kim Bôi (Hoà Bình), Hội Vân
(Bình Định), Quang hanh (Quảng Ninh), Bình Châu (Bà Rịa-Vũng Tàu) v.v…..
Hệ động thực vật: Đây là một tiềm năng
du lịch đã và đang khai thác có sức hấp dẫn lớn khách du lịch. Du khách đến với
các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên để tham quan thế giới động thực vật
sống động, hài hòa trong thiên nhiên để con người thêm yêu cuộc sống. Bên cạnh
đó là việc phát triển loại hình du lịch nghiên cứu khoa học và du lịch thể thao
săn bắn (phụ thuộc vào quy định từng vùng). Nước ta có giới sinh vật phong phú
về thành phần loài. Nguyên nhân là do vị trí địa lý, nó như làmột nơi gặp gỡ
của các luồng di cư động và thực vật. Hiện nay chúng ta có các vườn quốc gia
phục vụ phát triển du lịch như: Cúc Phương (Ninh Bình), Ba Vì (Hà Tây), Cát Bà
(Hải Phòng), Ba Bể (Bắc Kạn), Bạch Mã (Huế), Yondon (Đắc Lắc), Nam Cát Tiên
(Đồng Nai), Côn Đảo (Bà Rịa- Vũng Tàu), hệ sinh thái Đầm Dơi (Cà Mau ), khu bảo
tồn Tràm Chim (Đồng Tháp).
2..1.1.2 Tài nguyên du lịch
nhân văn
Tiềm năng du lịch nhân văn là đối tượng và hiện tượng văn
hóa lịch sử do con người sáng tạo ra trong đời sống. So với tiềm năng du lịch
tự nhiên, tiềm năng du lịch nhân văn có tác dụng nhận thức nhiều hơn, giá trị
giải trí là thứ yếu. Tiềm năng du lịch nhân văn thường tập trung ở các
thành phố lớn, là đầu mối giao thông và là nơi tập trung cơ sở vật chất
phục vụ du lịch. Đại bộ phận tài nguyên du lịch nhân dân không có tính mùa,
không bị phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên tần suất hoạt động của nó là rất
lớn (lượng khách, số ngày khách đến).
Ngày nay, việc phát huy các thế mạnh về tiền năng du lịch
nhân văn để phát triển du lịch được Nhà nước quan tâm, ngay Điều 1 pháp lệnh du
lịch Việt Nam chỉ rõ: “Nhà nước Việt Nam xác định du lịch là một ngàng kinh tế
tổng hợp, quan trọng, mang nội dung văn hoá sấu sắc…” . Việc phát triển du lịch
nhân văn (Du lịch văn hoá) là cách để giáo dục lòng yêu nước, nhận thức trách
nhiệm bảo vệ tài sản công của quốc gia, quản bá về hình ảnh của đất nước ra thề
giới.
Di tích lịch sử văn hoá: là tài sản văn hoá
quý giá của mỗ địa phương, mỗi đất nước và của cả nhân loại. Di tích được hiểu
theo nghĩa chung nhất là những tàn tích, dấu vết còn sót lại của quá khứ,
là tài sản của các thế hệ trước để lại cho các thế hệ kế tiếp. Ở Việt
Nam, theo pháp lệnh bảo vệ và sự dụng di tích lịch sử văn háo và danh lam thắng
cảnh công bố ngày 04/04/1984 thì di tích lịch sử văn hoá được quy định chư sau:
“Di tích lịch sử văn hoá là
những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và các tác phẫm có giá
trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật, cũng như có gía trị văn hoá khác, hoặc liên
quan đến sự kiện lịch sử, quá trính phát triển văn háo xã hội”
Các bảo tàng: là nơi bảo tồn tài
sản văn hoá dân tộc, truyền thụ tri thức, chấn hưng tinh hoa truyền thống. Cùng
với việc bảo vệ các di tích lịch sử – Văn hoá, việc xây dựng các bảo tàng luôn
đặt trong quốc sách về kinh tế, văn hoá, xã hội mỗi quốc gia. Mục 3, Luật di
sản văn hoá : “Bảo tàng là nơi bào quản và
trưng bày các sưu tập về lịch sử tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ nhu cầu nghiên
cứu, giáo dục tham quan quan”. Chính các bảo tàng cũng là nơi
thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước.
Tính đến năm 2001, cả nước có ta có 117 bảo tàng và cơ
quan làm công tác bảo tàng. Chúng ta có thể kể ra một số bảo tàng tiêu biểu
như: Bảo tàng Hồ Chi Minh, Bảo tàng lịch sự Việt Nam, Bảo tàng quân đội, Bảo
tàng văn hoá các dân tộc, Bảo tàng Hải dương học.v.v… trên thế giới có các bảo
tàng nổi tiếng như bảo tàng Hoàng Gia (Anh), Bảo tàng Luvơrơ (Pháp), Bảo
tàng Ecgionutát (Nga), Bảo tàng Cố cung (Trung Quốc)… với khối lượng
khổng lồ hiện vật lịch sự, những tác phẩm nghệ thuật thể hiện sự sáng tạo, tài
năng và trí tuệ bất tận của con người lúc nào cũng đón tiếp với số lượng lớn
khách du lịch.
Lễ hội: Bất cứ thời đại nào,
bất cứ dân tộc nào, và bất cứ mùa nào cũng có những ngày lễ hội. Lễ hội là hoạt
động sinh hoạt văn hoá cộng đồng diễn ra trên địa bàn dân cư trong thời gian và
không gian xác định nhằm nhắc lại những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử hay
một huyền thoại, đồng thời là dịp để hiểu biết cách ứng xử văn hoá của con
người với thiên nhiên thần thánh và con người với xã hội. Các lễ hội có sứa hấp
dẫn du khách không kém gì các di tích lịch sự văn hoá. Lễ hội có hai
phần: phần nghĩ lễ và phần hôị:
- Lễ là những nghi thức tiến hành theo
những quy tắc, luật tục nhất định mang ý nghĩa biểu trưng nhằm đánh dâú hoặc kỷ
niệm về một nhân vật hay một sự kiện lịch sử hay một huyền thoại với mục đích
tôn vinh và phàn ánh ước nguyện mong muốn nhận được sự giúp đỡ từ đối
tượng thờcúng.
- Hội là nơi tổ chức các hoạt động vui chơi
giãi trí hiện đại mang sắc thái dân gian phản ánh trình độ phát triển xã hội
thời thời đó, phản ánh đời sống kinh tế, trình độ dân trí và tâm tư tình cảm
của người dân địa phương.
Nhà nghiên cứu M.Bachie cho rằng: “Thực chất
lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò diễn, đó là cuộc
sống lao động và chiến đấu của cộng đồng dân cư, tuy nhiên bản thân cuộc sống
không thể thành lễ hội nếu như nó không được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại
thành thế giới tâm linh, tư tưởng của các bieu tưởng, vượt lên trên thế của
những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới và cuộc sống thứ thoát
li tạm thời, thực tại, hữu hiệu, đạt tới hiện thực, lý tưởng mà ở đó mọi thứ
phát triển đẹp đẽ, lung linh siêu việt và cao cả”
GS.Phan Đăng Nhật cho rằng: “Lễ
hội là kho tàng lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vô số những lớp phong tục tín
ngưỡng, văn hóa, nghệ thuật và cả các sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc.
Lễ hội còn là bảo tàng sống về các mặt sinhhoạt văn hoá tinh thần của người
Việt. Chúng đã sống, đang sống và với đặc trưng của mình, chúng tạo nên sức
cuốn hút và thuyết phục mạnh mẽ nhất.”
Các yếu tố của lễ hội ảnh hưởng
tới việc thu hút khách du lịch:
- Yếu tố thời gian: Các lễ hội nhìn chung
thường diễn ra vào mùa xuân, thời điểm bắt đầu mỗi năm mới con ngườicó thời
gian rảnh rỗi nên họ đi lễ ngaòi cầu lộc, cầu may còn là cách để nạp một nguồn
năng lượng mới để “ Chiến đấu với đời”
- Quy mô lễ hội: Các lễ hội có quy mô lớn,
nhỏ khác nhau điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động du lịch và khả năng thu
hút khách. Ở Việt Nam, các lễ hội có quy mô lớn như: Giỗ Tổ Hùng Vương, lễ hội
yên Tử, lễ hội chùa Hương thu hút một lượng khách rất lớn.
- Lễ hội thường được tổ chức tại những di
tích lịch sử văn hoá. Điều đó cho phép khai thác tốt hơn cả di tích lẫn lễ hội
vào mục đích du lịch.
Tiềm năng du lịch gắn với dân
tộc học: Mỗi dân tộc có những
điều kiện sinh sống, những đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán, hoạt động sản
xuất mang những sắc thái riêng. Và con người khi đi du lịch chính là đi tìm
“những xúc cảm mới lạ” mà quê mình không có. Cảm xúc khác lạ đấy chính là những
tập tục là về cư trú, thói quen ăn uống sinh hoạt, kiến trúc cổ, trang phục dân
tộc.v.v… Việt Nam với 54 dân tộc anh em vẫn còn giữ riêng bản sắc của mỗi vùng.
Chẳng hạn như du khách tới Tây Nguyên, về việc thưởng ngoạn thắng cảnh văn hoá
của Người Tây Nguyên còn có thể tham quan, tìm hiểu đời sống cảu các dân tộc
như Eđê, Mơnông, tham gia lễ hội Đâm Trâu, tham quan nhà Rông, uống rượu cần,
múa Cồng Chiêng cùng bà con các dân tộc. Càng gần gũi với đồng bào miền cao
này, người ta càng cảm thấy ngạc nhiên và rạt rào tình cảm quý mến. Đời sống
của đồng bào giản đơn nhưng tâm tình khá sâu sắc. Tưởng nghĩ của đồng bào và
văn hoá truyền thống phong phú, vừa thực tế, vừa mơ mộng….
Văn hóa ẩm thực: Người ta nói ăn uống
là biểu hiện của văn hóa. Mỗi quốc gia có một quan niệm khách nhau và vì vậy
hình thành phong cách ẩm thực riêng cho mình. Nguyễn Tuân đã từng nói: “Ẩm thực là một dòng chảy không
ngừng, không nghỉ như con sông nó đi qua bao tầng nấp, bờ bãi của kinh nghiệm
ăn và sống mới phát triển thành nghệ thuật. Chủ quan, cảm tính là yếu tố không
thể không tránh khỏi. Nhưng như mọi hiện diện của đời sống, ẩm thực cũng là một
ấn tượng, một thói quen, một ký ức hay một kỷ niệm.”
Nếu như người nước ta chú trọng đến đồ ăn và cách chế
biến thức ăn thì đối với người Pháp, thức ăn chỉ là yếu tố tạo nên chất lượng
vật chất, còn chất lượng thực sự của bữa ăn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Một
cách trang trí bàn ăn độc đáo, một bức tranh trên tường phù hợp, bộ khăn trải
bàn mang từ miền đất xa xôi đi cùng với bộ đồ ăn lạ mắt…. Tất cả đều mang theo
mình một câu chuyện, ẩn chứa một sự tò mò thú vị cho khách. Với người Pháp,
việc mời một người khách tới là “chịu trách nhiệm về hạnh phúc
của họ trong một thời gian dưới mái nhà của mình”. Một bữa ăn
truyền thống của người Pháp được sắp đặt như một bản giao hưởng hay vở kịch có
5 màn gồm: món nguội nhấm nháp, món nhẹ đầu bữa, món chính thường là thịt và
cá, tiếp đến là pho mát và sau cùng là món tráng miệng. Theo triết lý của người
Pháp: “bữa ăn là duy nhất mà ta không cảm thấy tẻ nhạt nhạt ngay từ lúc
đầu”
Ngày nay, việc đưa văn hóa ẩm thực vào các chương trình
du lịch đã trở nên phổ biến. Đó là cách đểlấy tiền của du khách một cách lịch sử nhất.
Việc xây dựng các chương trình du lịch ẩm thực thường được các công ty tổ chức
thành 2 lọai: Chương trình du lịch chuyên biệt và chương trình du lịch kết hợp.
Đến Việt Nam, du khách có thể thưởng thức các hương vị ẩm
thực khác nhau của mỗi vùng, mỗi miền. Du khách có thể thưởng thức món phở với
loại nước dùng bác học, chả cá
Lã vọng (Hà Nội); thưởng thức cơm vua ở cố đô Huế; Bò tái cầu mống ở Quảng Nam;
Giang nam dã hạc (miền Nam)… Tất cả đều tạo hướng đi mới cho ngành du lịch
trong việc tạo ra nhiều sản phẩm du lịch độc đáo phục vụ khách du lịch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét